Một số giải pháp góp phần phát triển du lịch sinh thái bền vững tại Vườn quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp - Pdf 24



1
Sếu đầu đỏ (Grus antigone)
ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 23/3/2012, tại Hà Nội, Cục Bảo tồn
đa dạng sinh học (Tổng Cục môi trường -
Bộ Tài nguyên và Môi trường) tổ chức hội
nghị “Tham vấn xây dựng Chiến lược Quốc
gia về Đa dạng sinh học đến năm 2020”
nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên đa dạng sinh
học, thông qua một số chính sách, chủ
trương và kế hoạch về bảo tồn đa dạng sinh
học. Trong đó, việc cần thiết hiện nay là
thay đổi cách tiếp cận từ bảo tồn không
thuần túy không khả thi sang bảo tồn kết hợp chia sẻ lợi ích và nâng cao nhận thức
của cán bộ quản lý, người dân… về lĩnh vực này.
Chiến lược Quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, sẽ giảm đáng kể các
áp lực trực tiếp lên đa dạng sinh học nhằm bảo tồn, phục hồi và sử dụng hợp lý các
hệ sinh thái, các loài sinh vật và nguồn gen như: Tăng cường chính sách và khung
pháp lý; xây dựng năng lực thể chế cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững; tăng
cường bảo tồn tại chỗ; tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích; củng cố giữ liệu đa
dạng sinh học, quản lý thông tin và báo cáo công cộng; mở rộng truyền thông và
nhận thức; tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực…
Việc quản lý, bảo tồn các loài sinh vật hoang dã đã được Việt Nam quan tâm
thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên, mà trước
tiên là Vườn Quốc gia Cúc Phương (1962). Việt Nam là một trong những nước có
đa dạng sinh học cao về các loài động thực vật và vi sinh vật, hiện đã thống kê được

là khu Ramsar thứ tư của Việt Nam sau Xuân Thủy, Bầu Sấu và Ba Bể và là khu
Ramsar thứ 2.000 được công nhận trên toàn thế giới.
Ramsar Tràm Chim là một trong những khu vực còn lại của hệ sinh thái đất
ngập nước Đồng Tháp Mười mà trước kia chiếm diện tích khoảng 700.000 hecta
bao trùm lên 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang. Tràm Chim là nơi bảo tồn 3
một diện tích lớn đồng cỏ ngập nước theo mùa, rừng tràm tái sinh và đầm lầy trống.
Rừng tràm phân bố khắp nơi trong Vườn quốc gia, theo kiểu trồng tập trung và
phân tán (những cụm mọc tự nhiên trong vùng đồng cỏ hay trong khu đầm lầy
trống). Tràm chim là nơi cư trú của một lượng lớn các loài chim nước, nhất là trong
mùa khô, khi có hàng ngàn loài thủy cầm đến đây cư trú và kiếm ăn.
Tràm Chim đã đạt được 5 trên 9 tiêu chí đánh giá của Công ước Ramsar: tính
đại diện của các quần xã sinh vật, tầm quan trọng của các loài có nguy cơ tuyệt
chủng toàn cầu, nơi tập trung các loài chim nước, và vai trò cung cấp thức ăn cho hệ
động vật dưới nước.
Như vậy tiềm năng du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Tràm Chim là rất
lớn. Phát triển chương trình du lịch sinh thái của VQG Tràm Chim mang một ý
nghĩa thiết thực và mang tính khả thi cao, thu hút sự quan tâm các nhà bảo tồn của
cộng đồng quốc tế đầu tư bảo vệ được khu Ramsar thứ 2.000 của Thế giới.
Ngày nay biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề mang tính chất toàn cầu được
cả loài người quan tâm. Vừa qua, Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia về biến
đổi khí hậu do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Chủ tịch nói lên tầm quan trọng của
BĐKH đối với việc bảo tồn và sự phát triển bền vững của đất nước. Trước thực tế
này có nhiều sự thay đổi trong việc lập kế hoạch và quản lý tài nguyên thiên nhiên
trong đó những bước tiến về chính sách và luật pháp như xây dựng chiến lược
BĐKH, kế hoạch hành động quốc gia, chương trình hành động của các tỉnh, đẩy
mạnh lồng ghép vấn đề BĐKH vào tất cả các chương trình, kế hoạch, dự án chính là
biện pháp tích cực để bảo tồn các vùng đất ngập nước trong nội địa như của Tràm

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực phát triển DLST của Vườn
quốc gia Tràm Chim như: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, công tác
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực du lịch nói riêng, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ nhân viên, hướng dẫn
viên du lịch của Vườn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Vùng lõi bên trong của VQG Tràm Chim cùng với
05 xã và thị trấn xung quanh Vườn ( gồm có: Xã Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành B,
Phú Thọ, Tân Công Sính và Thị trấn Tràm Chim)
- Phạm vi về thời gian: Luận văn chỉ nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch
sinh thái tại Vườn quốc gia Tràm Chim trong thời gian 5 năm từ 2006-2010.
4. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu về tổng quan cơ sở lí luận, thực tiễn về DLST vận dụng vào việc
nghiên cứu ở VQG Tràm Chim.
- Kiểm kê, đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển DLST VQG Tràm
Chim. 6
- Định hướng khai thác DLST ở VQG Tràm Chim theo hướng đảm bảo mục
tiêu và hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác hợp lý tiềm năng du lịch
của VQG cho phát triển DLST gắn với việc bảo tồn và hỗ trợ phát triển cộng đồng
theo hướng sử dụng bền vững. 7
Ruộng bậc thang Huyện Mù Cang Chải - Yên Bái
Chương 1

8
nước thành viên ASEAN. Thủ tướng Phan Văn Khải thay mặt cho chính phủ Việt
Nam cũng đã ký hiệp định này.
Du lịch sinh thái nói chung và du lịch sinh thái trong hệ thống các khu bảo
tồn thiên nhiên nói riêng là loại hình du lịch vẫn còn mới cả về khái niệm lẫn tổ
chức quản lý kinh doanh không chỉ đối với Việt Nam mà cho tất cả các nước khác
trong giai đoạn mở cửa và hội nhập. Với lợi thế hơn nhiều nước trong khu vực, tiềm
năng phong phú và đa dạng của các hệ sinh thái, nên ngay từ thời gian đầu của quá
trình đổi mới đất nước, việc phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam đã được coi
trọng. Theo thống kê của Cục Kiểm lâm, hiện cả nước có trên 13 triệu hécta rừng,
hệ thống RĐD bao gồm 164 khu, trong đó có 30 vườn quốc gia, 69 khu bảo tồn
thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa
học đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái quan trọng cả trên cạn, đất ngập nước và
ven biển (2007) làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển du lịch sinh thái. Sự định
hình và khởi sắc của Du lịch sinh thái ở các địa phương trong thời gian qua cũng là
cơ sở và nền tảng để ngành Du lịch Việt Nam hoạch định chiến lược phát triển du
lịch sinh thái tại các khu bảo tồn thiên nhiên một cách ổn định và bền vững.
Du lịch hiện nay được xem là một trong những ngành kinh tế lớn nhất của
thế giới với tiềm năng kinh tế to lớn. Chính vì vậy, hoạt động du lịch được rất nhiều
chuyên gia, nhà khoa học và cả các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
mãi đến những năm 80 của Thế kỷ trước, khái niệm "Phát triển bền vững" mới xuất
hiện và mãi đến đầu những năm 90, khái niệm về "Du lịch bền vững" mới bắt đầu
được đề cập đến. Lúc này các tác động tiêu cực lên môi trường của sự bùng nổ du
lịch trở nên rõ rệt hơn. Các nghiên cứu về "Du lịch bền vững" cho thấy Du lịch bền
vững không chỉ bảo vệ môi trường, giữ gìn sinh thái mà còn quan tâm đến khả năng
duy trì lợi ích kinh tế dài hạn và công bằng xã hội. Du lịch bền vững không thể tách
rời khỏi tranh luận rộng rãi về phát triển bền vững nói chung và là lĩnh vực tiên
phong, là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên Thế giới nói riêng.
Trong lĩnh vực học thuật, du lịch bền vững được một số công trình đề cập đến như:
"Du lịch và Môi trường: Mối quan hệ bền vững"[39], "Du lịch bền vững-Cái gì là

Đối với nước ta, "Du lịch bền vững" là một khái niệm còn khá mới mẻ. Đã
có một số công trình nghiên cứu về Du lịch trên khía cạnh bền vững như: "Cơ sở 10
VQG Lò Gò - Xa Mát, Tây Ninh
khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam"[31], "Du lịch bền
vững"[4], "Du lịch sinh thái - những vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt
Nam"[7], "Du lịch sinh thái trong các Khu Bảo tồn Tự nhiên ở Việt Nam"[6], "Cẩm
nang về phát triển du lịch bền vững"[22]. Đối với một số khu du lịch cụ thể, phần
lớn các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các kiến nghị.
Trong những năm qua, hoạt động Du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và
đạt được những tiến bộ. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 4 tháng
cuối năm 2003 đạt khoảng 800.000 người. Và cuối năm 2005 lượng du khách đạt
được 3 triệu lượt khách, trong đó tỷ lệ khách đến Việt Nam lần đầu tiên là 65,3% ,
20,9% khách đến lần thứ hai,
13,8% khách đến lần thứ ba.
(Riêng trong tháng 01/2006 có
350.000 khách quốc tế tăng 15,9%
so với cùng kỳ năm trước). Năm
2007: Khách du lịch quốc tế đạt
4,2 triệu lượt, tăng 17,2 % so với
năm 2006 Khách du lịch nội địa
đạt 19,2 triệu lượt, tăng 9,7% so
với năm 2006. Thu nhập xã hội về du lịch ước đạt 56 nghìn tỉ đồng, tăng 9,8% so
với năm 2006.
Gần đây nhất cuối năm 2007 Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn đã ban
hành Quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các Vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên (Ban hành kèm theo Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN, ngày
27/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Trong đó điều

1.2.1. Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái
1.2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a) Du lịch
Du lịch là một hoạt động đã có từ lâu, nhưng trước đây nó không được hiểu
là du lịch. Du lịch ban đầu chỉ là việc con người bắt đầu mở rộng giao lưu với thế
giới bên ngoài bằng các cuộc di chuyển. Ban đầu chỉ là khám phá tìm vùng đất mới,
sau đó là các hoạt động đi lại gắn liền với buôn bán và thường thì sẽ lưu trú lại tại
nơi đó một khoảng thời gian ngắn. 12
Với sự phát triển của công nghiệp ngày càng mạnh mẽ từ thế kỷ XVIII, hàng
loạt các phương tiện di chuyển hiện đại được phát minh thì nhu cầu nghỉ dưỡng,
tham quan, nghiên cứu… trở nên dễ dàng hơn với mọi người. Chính vì lẽ đó hoạt
động du lịch có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Năm 1925, hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of
Union Official Travel Organization) được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước
ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được
hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình
trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay
chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động
của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và
tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu
thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”.
Tổ chức du lịch thế giới WTO (World Tourism Organization) định nghĩa:
“Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục
đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi
du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80km trong

trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hoá
mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và
văn hoá bản địa.
“Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du khách
tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã,
đặc sắc để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hoá bản địa độc đáo,
làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên
và cộng đồng địa phương. Là hình thức du lịch có trách nhiệm không làm ảnh
hưởng đến các khu bảo tồn thiên nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường và góp
phần duy trì, phát triển cuộc sống của cộng đồng người dân địa phương.
Khái quát lại “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch có những đặc tính cơ bản
sau: 14
- Phát triển dựa vào những giá trị (hấp dẫn) thiên nhiên và văn hoá bản địa.
- Được quản lý bền vững về môi trường sinh thái.
- Có giáo dục và diễn giải về môi trường.
- Có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng.
Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về “Du lịch sinh thái” lần đầu tiên được
Hector Ceballos-Lascurain đưa ra năm 1987: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những
khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham
quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám
phá”
Cùng với thời gian, định nghĩa về “Du lịch sinh thái” được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đưa ra, điển hình là: “Du lịch sinh thái là du lịch đến các khu vực còn
tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hoá
mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội
về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho người
dân địa phương.” (Wood, 1991)

kiến của các chuyên gia đều cho rằng Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo
hướng bền vững về mặt sinh thái.
c) Du lịch bền vững
Du lịch bền vững là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du
lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai.
Du lịch bền vững đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên để có thể đáp
ứng: Nhu cầu kinh tế - xã hội; duy trì bản sắc văn hoá của các dân tộc trên lãnh thổ
và đảm bảo sự sống, đa dạng sinh học.
d) Phát triển bền vững
Phát triển là một quy luật tất yếu của nhân loại. Do dân số gia tăng ngày một
nhanh, nên để đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống thì sự gia tăng các nhu
cầu về sử dụng môi trường, hệ sinh thái một tăng hơn. Để đáp ứng được thì việc
khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho các nhu cầu đó là
không thể tránh khỏi. Chính vì lẽ đó dẫn đến việc tài nguyên thiên nhiên ngày càng
cạn kiệt, hệ sinh thái bị phá hủy, môi trường xuống cấp. 16
Khái niệm “Phát triển bền vững” được ra đời vào năm 1987 trong báo cáo
“Tương lai của chúng ta” do Ủy ban môi trường và phát triển của ngân hàng thế
giới. Trong khái niệm có nêu: Phát triển bền vững là làm thỏa mãn các nhu cầu hiện
tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn nhu cầu trong tương lai, đảm bảo sử dụng
đúng mức và ổn định. Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội mà còn đảm bảo những điều kiện môi trường cho con người đang tồn tại và
cho thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững nhằm mục đích đảm bảo cho cuộc sống tốt hơn của con
người trong hiện tại và cho các thế hệ mai sau. Do đó, nó đồng thời phải đạt được 4
mục tiêu sau:
- Tiến bộ xã hội đáp ứng nhu cầu của mọi người.

a) Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lí
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai
một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước
được hưởng. Có nghĩa là ngăn ngừa trước những thay đổi không thể tránh được đối
với những tài sản môi trường không có khả năng thay thế, tính vào chi phí hoạt
động kinh tế các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này
không phải là “hàng hoá cho không”.
Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với các tài nguyên nhân văn.
Cần trân trọng các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và
đất đai mà người ta dựa vào để sống.
Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đang ngày càng
được nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lí hợp lí mang tính toàn
cầu và nó cũng khiến cho kinh doanh phát triển lâu dài.
b) Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải
Sự tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến sự huỷ hoại môi trường
trên toàn cầu của chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển bền vững lâu dài cuả du
lịch. Kiểu tiêu thụ này là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển
nhưng lại lan rộng rất nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các
dự án du lịch được triển khai mà không có đánh giá tác động môi trường hoặc
không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự 18
tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài nguyên khác một cách lãng phí và không
cần thiết. Chính điều này gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá và xã hội.
Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát lượng chất thải
từ du lịch góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển
không bền vững của du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.
Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí
tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du

đến tự nhiên, văn hoá, môi trường, theo đó DLST cần được tổ chức với sự tuân thủ
chặt chẻ các quy định về sức chứa [9]
“Sức chứa du lịch là số lượng người cực đại mà hệ sinh thái ở khu du lịch có
thể chấp nhận, không gây suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, không gây xung đột xã hội
giữa cộng đồng địa phương và du khách, không gây suy thoái nền kinh tế truyền
thống của cộng đồng bản địa”
Từ khái niệm trên cho thấy, trong phát triển DLST sức chứa là yếu tố quan
trọng hàng đầu, nó liên quan trực tiếp đến sự bền vững của khu, điểm du lịch và nó
quyết định sự tồn tại của nền văn hoá bản địa. Sức chứa giải thích cho ta thấy một
khu, điểm DLST chỉ chấp nhận một khối lượng khách và phương tiện chuyên chở
nhất định.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có
thể xác định một con số chính xác về sức chứa cho một khu vực. Mặt khác, mỗi khu
vực khác nhau sẽ có sức chứa khác nhau.
Để đơn giản, Boullón đưa ra một công thức chung để xác định sức chứa du
lịch của một khu vực, chia thành yêu cầu khu vực do du khách sử dụng và tiêu
chuẩn trung bình cho từng cá nhân (m2/người)

Khu vực do du khách sử dụng
Sức chứa =
Tiêu chuẩn trung bình cho mỗi cá nhân

Tiêu chuẩn không gian trung bình cho mỗi du khách thay đổi phụ thuộc vào
hình thức hoạt động du lịch. 20
Ví dụ: Du lịch nghỉ dưỡng biển từ 30-40 m2/người. Du lịch giải trí cần từ 50-
60 m2/người. Du lịch mang tính chất thể thao từ 200-400 m2/người.
Tổng số khách có thể tham quan mỗi ngày được tính theo công thức sau :

Cf: Biến số điều chỉnh.
Ml: Mức độ hạn chế của biến
Mt: Tổng số khả năng của biến.
Các biến số điều chỉnh liên quan tới các đặc điểm và điều kiện cụ thể của
mỗi tuyến, điểm tham quan và không nhất thiết giống nhau.
- Sức chứa cho phép (enable capacity): là sức chứa thực tế bị hạn chế bởi các
điều kiện liên quan đến mức độ quản lý du lịch. Chẳng hạn, mức độ đảm bảo yêu
cầu quản lý chỉ đáp ứng X%, ECC sẽ là:
ECC = RCC x X/100
Như vậy, PCC luôn lớn hơn RCC và RCC lớn hơn ECC hoặc chỉ bằng khi
mức độ quản lý đảm bảo 100%.
Sức chứa thay đổi tuỳ thuộc vào địa điểm, tính mùa, thời gian, thái độ của
người sử dụng, các phương tiện, tình trạng và mức độ quản lý, cũng như đặc trưng
về môi trường của bản thân điểm du lịch.
f) Chia sẻ lợi ích đối với cộng đồng địa phương
Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, việc
khai thác các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn
lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có sự hỗ trợ đối với
sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi đối với cộng đồng địa phương thì sẽ làm
cho kinh tế và cuộc sống của người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này
buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tài nguyên của mình, làm đẩy
nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả là
những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói chung và
kinh tế - xã hội nói riêng. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa dạng hoá kinh tế
bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch đúng đắn về hạ tầng cơ
sở như đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc có thể phục vụ cho sự phát triển
không phải là phát triển du lịch nhưng vẫn củng cố và thúc đẩy công nghiệp du lịch. 22

23
h) Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và
các đối tượng có liên quan
Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát
triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của người dân địa phương và tác
động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Ý kiến
của người dân địa phương là cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện
pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp tích cực của quần
chúng địa phương.
Du lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khách với người dân bản địa
có các tập quán văn hoá và tín ngưỡng khác họ. Do đó, du lịch bền vững cần tham
khảo ý kiến và thông báo cho người dân địa phương về những thay đổi tiềm ẩn do
sự thay đổi nhanh chóng của ngành du lịch. Tham khảo ý kiến trên diện rộng với
các chính quyền địa phương cũng như người dân để khuyến khích sự tham gia đóng
góp ý kiến, lồng ghép các lợi ích của cá nhân và quần chúng.
i) Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường
Một lực lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng thành thạo không những
đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du
lịch. Việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính
chất phức tạp của du lịch sẽ giúp cho việc nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng
cường sản phẩm của du lịch đối với cả du khách, chủ nhà và ngành du lịch.
Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu
biết và cảm nhận khác nhau về văn hoá và làm cho nhân viên du lịch và học viên
nắm được nhu cầu của cả “khách” và “chủ nhà”. Điều đó cũng giúp loại bỏ những
thành kiến và tính bài ngoại.
Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên là
người địa phương. Điều này được áp dụng đặc biệt đối với cán bộ tổ chức và hướng
dẫn viên du lịch có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn trong vùng và việc tham
gia của họ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân viên người địa phương


cho thấy rằng cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho 25
hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ
chế, chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các
trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm
năng, kỹ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực
và cam kết về nghiệp vụ.
Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và
phân tích có hiệu quả các số liệu là cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn
đề còn tồn đọng và mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa
phương, cho du lịch và cho du khách.
Tóm lại những nguyên tắc cơ bản trên đây nếu được thực hiện đầy đủ sẽ đảm
bảo chắc chắn cho sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch, phát triển bền vững
chính là chìa khoá cho sự thành công lâu dài của ngành du lịch.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn về du lịch sinh thái
1.2.2.1. Một số kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái trong các Vườn quốc gia
trên thế giới
a) Du lịch sinh thái trong vườn quốc gia Galápagos
Quần đảo Galápagos nằm ở Thái Bình Dương. Quần đảo gốm có 61 đảo lớn
nhỏ, chúng thuộc về Ecuador từ năm 1832 [5], [16]. Quần đảo mang những nét đặc
trưng riêng do hệ động ,thực vật độc đáo. Các loài động vật quan trọng bao gồm:
rùa biển, chim cánh cụt, chim hải âu lớn, kỳ đà biển,v.v. Các loài thực vật đặc hữu
có xương rồng khổng lồ, hướng dương ,v.v. Thế giới hoang dã độc đáo và sự bạo
dạn trong giao tiếp với con người tạo nên điểm thu hút du lịch tự nhiên hàng đầu
trên thế giới [5], [16].
DLST bắt đầu ở vùng biển đảo này vào năm 1969 khi hai công ty lữ hành
Metropolitan Touring và Turismundial dùng tàu đưa du khách đến quần đảo và từ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status