Dự báo kết quả đàm phán hiệp định thương mại xuyên thái bình dương (tpp) trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Cơ hội và thách thức với việt nam - Pdf 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
DỰ BÁO KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên : Phạm Hoàng Anh
Mã sinh viên : 0851020226
Lớp : Anh 18 - Khối 8 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : TS Đào Ngọc Tiến
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
2
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 AANZFTA
ASEAN – Australia – New
Zealand Free Trade
Agreement
Hiệp định thương mại tự
do ASEAN – Úc – New
Zealand
2 APEC
ASEAN – Pacific Economic
Corporation
Diễn đàn hợp tác kinh tế

2222
2
3
3333
3
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi vòng đàm phán Uruguay kết thúc, xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu
chuyển dần sang các hiệp định thương mại tự do khu vực và song phương. Xu thế
này đã không ngừng lan rộng khắp khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trước năm
2000, chỉ có 4 hiệp định chính giữa các nền kinh tế APEC đó là Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA), khu vực thương mại tự do Hoa Kỳ - Canada, khu vực
thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và hiệp định thiết lập Quan hệ Kinh tế gần gũi
hơn nữa New Zealand – Australia. Hiện nay con số này đã lên tới 39 hiệp định và
nhiều hiệp định khác đang trong quá trình đàm phán.
Trong số đó, đàm phán Hiệp định TPP (hay còn gọi là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương) nổi trội lên, trở thành một vấn đề rất được quan tâm bởi
rất nhiều lí do. Thứ nhất, Hiệp định TPP có quy mô điều chỉnh rộng lớn. 9 quốc gia
thành viên của Hiệp định TPP có tổng GDP là 16 968 tỉ USD, thu nhập bình quân
đầu người là 33 546 USD/người, với dân số khoảng 505,8 triệu người (2010)
(Australian Government - Department of Foreign Affairs and Trade, 2012). Thứ
hai, Hiệp định TPP có mức độ tự do hóa thương mại mạnh mẽ ở các lĩnh vực và tự
do hóa ngay lập tức. Và cuối cùng, Hiệp định có phạm vi điều chỉnh phong phú.
Bên cạnh những vấn đề thương mại truyền thống như thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, v.v Hiệp định còn đề cập đến nhiều vấn đề phi thương mại như môi
trường, lao động, v.v. Do đó, Hiệp định TPP được coi là Hiệp định thương mại tự
do kiểu mẫu của thế kỷ 21, dự báo sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến khu vực kinh tế năng
động Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung.
Về các lĩnh vực cam kết trong Hiệp định TPP, lĩnh vực thương mại dịch vụ

Quốc. Đặc biệt, Hiệp định KORUS được coi là chuẩn mực để Hoa Kỳ đàm phán
Hiệp định TPP khi mà các cam kết Hoa Kỳ đề xuất trong Hiệp định TPP có nội
dung gần như tương đương với Hiệp định KORUS.
Phương pháp nghiên cứu: Trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: phân
tích tài liệu, số liệu thống kê, nghiên cứu so sánh và quy nạp, kết hợp nghiên cứu
với thực tiễn.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Phụ lục, kết cấu của đề tài như sau:
5
6
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về tự do hóa thương mại dịch vụ trong các
hiệp định thương mại tự do và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Chương 2: Cam kết về thương mại dịch vụ trong các Hiệp định thương mại
tự do và dự báo cho Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Chương 3: Cơ hội, thách thức và khuyến nghị với Việt Nam trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Tiến sĩ Đào Ngọc Tiến –
giáo viên hướng dẫn trực tiếp đã giúp đỡ em hoàn thiện đề tài này. Đề tài được viết
trong thời gian ngắn và bản thân kiến thức và kinh nghiệm còn hạn hẹp nên chắc
chắn không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng
góp của quý thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
6
7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP)
1.1 Thương mại dịch vụ

tiếp bằng những tiêu chuẩn kĩ thuật được lượng hóa. Chính vì thế, việc thống kê,
lượng hóa, đánh giá chất lượng và quy mô cung cấp dịch vụ ở cấp độ vi mô và vĩ
mô khó khăn hơn rất nhiều so với hàng hóa hữu hình.
Thứ hai, quá trình sản xuất dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ thường xảy ra
đồng thời.
Đối với hàng hóa, sản xuất hàng hóa thường tách khỏi lưu thông và tiêu
dùng. Vì thế hàng hóa có thể lưu kho, dự trữ, vận chuyển đi nơi khác theo nhu cầu
của thị trường. Trong khi đó, quá trình cung ứng dịch vụ thường gắn liền với tiêu
dùng dịch vụ. Ví dụ, với dịch vụ giáo dục, khi các giáo viên, giảng viên là những
người cung cấp dịch vụ tiến hành giảng dạy, cung cấp dịch vụ giáo dục, thì đồng
thời lúc đó, học sinh, sinh viên là những người sử dụng dịch vụ cũng đang tiếp nhận
dịch vụ giáo dục. Có thể nói, việc cung ứng dịch vụ thường đòi hỏi sự tiếp xúc trực
tiếp giữa người cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ.
Thứ ba, dịch vụ không lưu trữ được.
Do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ thường diễn ra đồng thời nên không thể sản
sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu trữ trong kho như hàng hóa sau đó mới tiêu dùng.
Theo đó, trong cung ứng dịch vụ không có khái niệm tồn kho hoặc lưu trữ sản phẩm
dịch vụ.
1.1.2 Thương mại dịch vụ
1.1.2.1Khái niệm thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh
vực dịch vụ, hay nói chính xác hơn, là khái niệm được dùng để nhấn mạnh khía
cạnh thương mại, tính chất thương mại trong hoạt động cung cấp dịch vụ (Nguyễn
Thị Mơ, 2011, tr.241). Cách hiểu này giúp phân biệt thương mại dịch vụ với thương
mại hàng hóa, nhấn mạnh vào đối tượng mua bán của thương mại dịch vụ là dịch vụ
- các sản phẩm vô hình.
8
9
Nói cách khác, thương mại dịch vụ là khái niệm rộng để chỉ tất cả các hoạt
động cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Dịch vụ cũng

10
xuất khẩu đạt 3695 tỷ USD, giá trị nhập khẩu đạt 3510 tỷ USD (WTO, 2011,
tr.144). Tốc độ tăng trưởng của thương mại dịch vụ toàn cầu vẫn đạt khoảng 9%
vào năm 2010 (WTO, 2011, tr.145) bất chấp khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, thương mại dịch vụ thúc đẩy hội nhập khu vực và quốc tế, cải thiện
cán cân thương mại của các quốc gia. Xu hướng xuất khẩu dịch vụ ngày càng gia
tăng đã thúc đẩy hội nhập kinh tế giữa các quốc gia. Thương mại dịch vụ được coi
là con đường ngắn nhất để nhiều nước đang phát triển đa dạng hóa hoạt động xuất
khẩu của mình, từ đó tiếp cận gần hơn với các thị trường quốc tế.
Thứ ba, thương mại dịch vụ tăng cường phân công lao động và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Dịch vụ chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong từng nền kinh tế
quốc dân cũng như nền kinh tế thế giới, thể hiện ở tỷ trọng trong GNP không ngừng
tăng lên nhờ những cuộc cải cách cơ cấu từ cuối thập niên 80. Tỷ trọng dịch vụ
trong GNP ở các nước phát triển thường đạt khoảng 60-70%, các nước kém phát
triển hơn đạt khoảng 40% và có xu hướng ngày càng tăng.(Nguyễn Thị Mơ, 2011,
tr.243)
Thứ tư, thương mại dịch vụ góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm. Lĩnh vực
dịch vụ ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều lao động. Trong sản xuất hàng hóa,
với sự phát triển của công nghệ, máy móc đang dần thay thế vai trò của người lao
động. Tuy nhiên, dịch vụ là lĩnh vực đặc biệt, trong đó vai trò của người lao động
rất quan trọng. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là các nước phát triển, tỷ trọng
lao động trong cách ngành dịch vụ so với toàn bộ lực lượng lao động thường chiếm
từ 60-70%. Ví dụ, ngành du lịch thu hút 204 triệu lao động trên toàn thế giới, chiếm
10,6% lực lượng lao động thế giới (Nguyễn Thị Mơ, 2011, tr.244)
Thứ năm, thương mại dịch vụ thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển trong
phạm vi quốc gia và quốc tế. Dịch vụ chính là cầu nối giúp quá trình sản xuất hàng
hóa, tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi. Ví dụ như sự ra đời của dịch vụ vận tải đã
giúp hàng hóa được lưu thông thuận lợi trên toàn cầu, khắc phục khoảng cách về địa
lý, đáp ứng nhu cầu hàng hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác. Trong quá trình
chuyên chở trên khoảng cách lớn có rất nhiều rủi ro, các dịch vụ bảo hiểm sẽ gánh

kết các Hiệp định thương mại tự do nhằm cắt giảm và xóa bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan, tiến tới thành lập những khu vực mậu dịch tự do. Theo thống
kê của Tổ chức thương mại thế giới WTO, đến nay đã có hơn 200 FTA có hiệu lực
(WTO, 2011, tr.253).
11
12
Khi tiếp cận tự do hóa thương mại dịch vụ, các FTA thường đưa ra quy định
chung về các phương thức cung ứng dịch vụ để từ đó đưa ra các cam kết theo hai
phương pháp: phương pháp “chọn – bỏ” (negative list) và phương pháp “chọn –
cho” (positive list).
Các phương thức cung ứng dịch vụ chung thường được quy định trong các
FTA bao gồm:
 Phương thức 1: Cung ứng qua biên giới (cross-border supply): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ ở nước A bán dịch vụ cho khách hàng tại nước
B mà không di chuyển ra khỏi nước mình. Ví dụ: một kiến trúc sư tại New
Zealand bán một thiết kế cho một công ty xây dựng tại Việt Nam.
 Phương thức 2: Tiêu thụ ở nước ngoài (consumption abroad): là hình thức
mà một người tiêu dùng dịch vụ của nước B sẽ đến nước A để mua và tiêu
dùng dịch vụ tại nước A). Ví dụ: một sinh viên Việt Nam đến Australia và
học tại Australia.
 Phương thức 3: Hiện diện thương mại (commercial presence): là hình thức
mà một nhà cung ứng dịch vụ của nước A sẽ lập một văn phòng tại nước B
và cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng ở nước B. Ví dụ: một công ty luật
của Singapore lập một văn phòng đại diện tại Việt Nam và kinh doanh dịch
vụ luật pháp tại Việt Nam.
1.1.3.1 Phương pháp “chọn – cho” (positive list)
Phương pháp “chọn – cho” là cam kết theo dạng “chỉ được làm những gì
được phép làm”, tức là chỉ cam kết với những ngành được liệt kê trong biểu cam
kết. Ví dụ WTO sử dụng phương pháp “chọn – cho” khi xác định phạm vi cam kết,
tức là các dịch vụ được đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Theo đó, bên cam kết chỉ

chẽ hơn do nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand và Singapore (P3) phát động
đàm phán nhân dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 4 năm
13
14
2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán
cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán
của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ
về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Phía Hoa Kỳ cũng
bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các nhóm lợi ích và Nghị
viện về vấn đề này.
Tháng 9/2008, Đại diện thương mại Hoa Kì (USTR) thông báo quyết định
của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và chính thức tham gia một số cuộc
thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính với các nước P4. Tháng 11 cùng
năm, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan tâm và tham gia
đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước (trừ Việt Nam đến
13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách thành viên đầy đủ, các
nước khác quyết định tham gia chính thức ngay từ đầu). Cũng từ thời điểm này,
đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP).
Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì hoãn đến tận cuối năm 2009 do phải
chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng thống và Chính quyền mới của Tổng
thống Obama tham vấn và xem xét lại việc tham gia đàm phán TPP. Tháng
12/2009, Đại diện thương mại Hoa Kỳ mới thông báo quyết định của Tổng thống
Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được
chính thức khởi động.
Về phía Việt Nam, từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực
mời Việt Nam tham gia TPP - P4. Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và
chính trị, Việt Nam chưa nhận lời mời này của Singapore.
Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định tham gia TPP, và trước khi tuyên bố tham

15
16
Các nhà đàm phán TPP trao đổi quan điểm về hàng loạt các vấn đề sẽ được
đưa vào các cuộc đàm phán và nêu ra các phương pháp tiếp cận mới đối với những
trở ngại mà các doanh nghiệp trong khu vực gặp phải và các lĩnh vực mới nổi của
thương mại quốc tế như dịch vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh. Các bên
cũng rất quan tâm đến việc phát triển một khung đàm phán tốt nhất cho một hiệp
định chất lượng cao của thế kỷ 21 cũng như mục tiêu mở rộng hiệp định cho các
quốc gia khác trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Vòng đàm phán thứ hai: Vòng đàm phán thứ hai của TPP được tổ chức tại
San Francisco (Hoa Kỳ) từ ngày 14 - 18 tháng 6/2010 đã đạt được những tiến triển
đáng kể cả về cấu trúc của Hiệp định cũng như hàng loạt các vấn đề cụ thể trong
TPP.
Các nước TPP thống nhất rằng các Hiệp định thương mại song phương giữa
các nước TPP sẽ tiếp tục tồn tại song song với TPP, điều này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp lựa chọn sử dụng hiệp định nào tốt hơn cho hàng hóa, dịch vụ hay đầu tư
của mình.
Vòng đàm phán lần này cũng đạt được tiến bộ vững chắc về phương pháp
tiếp cận đàm phán về kết quả của tiếp cận thị trường và làm thế nào để phản ánh
những kết quả đó trong hiệp định.
Các trưởng đoàn đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về hàng loạt các vấn
đề chung quan trọng của thế kỷ 21 định hướng cho các cuộc đàm phán liên quan
đến thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ và thúc đẩy tính thống nhất
pháp lý, v.v Ngoài ra, các nhà đàm phán TPP cũng đạt được các tiến triển về hàng
loạt các vấn đề truyền thống của FTA bao gồm hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm
chính phủ, sở hữu trí tuệ, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, chính sách cạnh
tranh, các vấn đề pháp lý và xây dựng năng lực. Các cuộc thảo luận cũng tập trung
vào loại điều khoản nào quy định về thương mại và lao động, thương mại và môi
trường phù hợp với TPP.
16

18
Dự thảo, cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa chúng nhưng vẫn cân nhắc đến lợi ích
và quan ngại của mỗi quốc gia.
Các đàm phán về tiếp cận thị trường đối với hàng hóa bắt đầu ở Santiago,
sau khi các bên trao đổi các bản chào ban đầu vào tháng 1/2011. Các bên cũng đồng
ý trao đổi các bản chào về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm
chính phủ trước vòng đàm phán tới. Các bản chào dịch vụ và đầu tư sẽ được thực
hiện theo phương pháp “chọn - bỏ”, đối với tất cả các nước TPP.
Vòng đàm phán thứ sáu: Vòng đám phán này diễn ra tại Singapore từ 24/3
đến 1/4 năm 2011. Bản thảo hiện tại đang được đưa ra thảo luận trong mỗi nhóm
đàm phán và các cuộc thảo luận đã đạt được kết quả trong việc làm rõ hơn và hài
hòa các khoảng cách về vị thế. Các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường được
trao đổi trước vòng đàm phán này về dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Phù
hợp với một hiệp định TPP tham vọng cao, các bản chào đầu tư và dịch vụ được
thực hiện trên cơ sở “chọn - bỏ” (negative list) - một thực tiễn chưa từng xảy ra
trước kia đối với một số nước TPP.
Các cuộc thảo luận cũng đạt được các tiến triển về các cam kết nền về các
vấn đề chung, như gia tăng sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào
thương mại quốc tế, tăng cường hài hòa pháp lý, thúc đẩy chuỗi cung ứng và sản
xuất trong khu vực.
Vòng đàm phán thứ bảy: Vòng đàm phán thứ bảy diễn ra tại TP Hồ Chí
Minh (Việt Nam) từ ngày 15-24 tháng 6/2011. Các bên đã làm việc nhằm củng cố
các vấn đề hiện tại và xem xét các đề xuất mới ở các nhóm làm việc, bao gồm sở
hữu trí tuệ, dịch vụ, minh bạch, truyền thông, hải quan và môi trường. Các bên tiếp
tục thảo luận về từng bản chào của các nước và phương pháp tiếp cận thị trường,
các cam kết về lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ. Các đề xuất của Hoa
Kỳ về tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại
quốc tế, cải thiện sự hài hòa pháp lý, tăng cạnh tranh và các chuỗi cung ứng được
xem xét.
18

19
20
Vòng đàm phán thứ mười một: Vòng đàm phán này diễn ra từ ngày 2 – 7
tháng 3/2012 tại Melbourne (Australia). Trong các phiên họp, các nhà đàm phán
tiếp tục bàn về vấn đề pháp lý, đầu tý, các rào cản kỹ thuật thýõng mại, quy tắc xuất
xứ, quyền sở hữu trí tuệ, lao động, dịch vụ tài chính, đầu tý, nhập cảnh tạm thời, và
các biện pháp khắc phục hậu quả thýõng mại. Thêm vào đó, các nhà đàm phán cũng
đã bắt đầu các cuộc thảo luận về hợp tác quản lý và xây dựng năng lực thýõng mại.
Ngoài ra, các thành viên đã thảo luận về các vấn đề liên quan đến môi trýờng, viễn
thông, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, thýõng mại điện tử, tiếp cận thị trýờng, và
các vấn đề hải quan. Bên lề các cuộc đàm phá, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế
TPP cũng tham gia vào Diễn dàn mở do Australia tổ chức, tạo điều kiện cho khoảng
250 bên liên quan thảo luận về các vấn đề quan tâm trong các cuộc đàm phán.
Có thể thấy tiến trình đàm phán Hiệp định TPP đang diễn ra một cách nhanh
chóng và cởi mở giữa các quốc gia nhằm tiến tới một Hiệp định thương mại tự do
tiêu chuẩn cao, một hình mẫu của FTA thế hệ mới thế kỷ 21 với mức độ mở cửa
mạnh mẽ ở tất cả các ngành, có tác động lớn đến thương mại giữa các đối tác của
Hiệp định TPP.
1.2.2 Những nội dung cơ bản của Hiệp định TPP
1.2.2.1 Đặc trưng chính của Hiệp định TPP
Với việc đặt nhiều kì vọng vào Hiệp định TPP nhằm mục tiêu tăng cường
thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên TPP, thúc đẩy sợ đổi mới, tăng
trưởng kinh tế và phát triển và hỗ trợ, tạo thêm và duy trì việc làm, trong Bản mô tả
các lĩnh vực đàm phán chính của Hiệp định TPP được đưa ra vào ngày
12/11/2011, các Bộ trưởng thương mại các nước thành viên TPP đã xác định 5 đặc
trưng giúp Hiệp định TPP trở thành một hiệp định mang tính bước ngoặt về thương
mại của thế kỉ 21. Những đặc điểm này bao gồm:
 Tiếp cận thị trường toàn diện: bãi bỏ thuế và các rào cản thương mại hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư, nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và
doanh nghiệp cũng như những lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.

các sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo, trong đó có nền kinh tế kỹ thuật
số và công nghệ xanh, và đảm bảo một môi trường kinh doanh cạnh tranh
trong toàn bộ khu vực TPP.
 Hiệp định mở: cho phép cập nhật hiệp định khi phù hợp để giải quyết các vấn
đề thương mại nảy sinh trong tương lai cũng như các vấn đề mới phát sinh
trong quá trình mở rộng Hiệp định để kết nạp thêm những thành viên mới.
21
22
1.2.2.2 Các vấn đề đàm phán chính của Hiệp định TPP
Hiệp định TPP được đàm phán theo cách tiếp cận cả gói, bao gồm toàn bộ
các lĩnh vực then chốt về thương mại và có liên quan đến thương mại. Không chỉ
cập nhật các cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã có trong các FTA
trước đây, Hiệp định TPP bao gồm thêm nhiều vấn đề mới, đang nổi và xuyên suốt.
Hơn hai mươi nhóm đàm phán đã làm việc tích cực nhằm đạt được thỏa thuận về
mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và mua sắm chính phủ của các thành viên TPP
khác. Tất cả chín nước thành viên cũng nhất trí thông qua những tiêu chuẩn cao
nhằm đảm bảo các bên sẽ cùng chia sẻ tất cả lợi ích và nghĩa vụ của Hiệp định. Một
bộ các cam kết mới, xuyên suốt nhằm mục tiêu cắt giảm chi phí, tạo thuận lợi phát
triển dòng chảy và mạng lưới thương mại thông thoáng hơn giữa các thành viên
TPP, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thương mại
quốc tế, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống.
Các vấn đề chính đang đàm phán được mô tả trong Bản mô tả các lĩnh vực
đàm phán chính của Hiệp định TPP bao gồm:
 Cạnh tranh: Các thành viên TPP đã cam kết về việc thiết lập và duy trì các
luật và cơ quan quản lý cạnh tranh, thủ tục công bằng trong việc thực thi luật
cạnh tranh, minh bạch hóa, bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư về hành
động và hợp tác kỹ thuật.
 Hợp tác và nâng cao năng lực: Các thành viên đã triển khai một số hoạt
động hợp tác và nâng cao năng lực nhằm đáp ứng các yêu cầu cụ thể và đang
lên kế hoạch về những hoạt động bổ sung nhằm hỗ trợ các nước đang phát

tiếp cận hiệu quả và cân bằng đối với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ giữa các
nước thành viên TPP.
 Đầu tư: Các thành viên TPP đang tiếp tục đàm phán về sự bảo vệ cơ bản về
pháp lý đối với các nhà đầu tư và các hoạt động đầu tư của mỗi quốc gia
thành viên TPP trong lãnh thổ các thành viên TPP khác cũng như cơ chế giải
quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư và Nhà nước một cách nhanh chóng,
công bằng và minh bạch trên cơ sở cơ chế phù hợp bảo vệ Nhà nước.
 Lao động: Các nhà đàm phán đang tiếp tục thảo luận các cam kết về bảo vệ
quyền lao động và các cơ chế nhằm đảm bảo hợp tác, phối hợp và đối thoại
về các vấn đề lao động mà các thành viên cùng quan tâm.
 Các vấn đề pháp lý: Các thành viên TPP đã đạt được tiến bộ về các điều
khoản liên quan đến thực thi hiệp định, các trường hợp ngoại lệ đối với các
nghĩa vụ của hiệp định cũng như về các quy tắc xử lý vấn đề minh bạch
trong việc xây dựng các điều luật, quy định hay các quy tắc khác.
 Tiếp cận thị trường hàng hóa: Các thành viên TPP đã thống nhất đưa ra các
cam kết quan trọng cao hơn các nghĩa vụ của WTO hiện nay, cũng như xóa
bỏ các rào cản phi thuế quan hiện nay. Ngoài ra, các bên cũng đang cân nhắc
23
24
các vấn đề liên quan đến cấp giấy phép xuất nhập khẩu, cạnh tranh xuất khẩu
hàng nông nghiệp và an ninh lương thực, cam kết ở mức cao với hàng dệt
may,v.v
 Quy tắc xuất xứ: Các thành viên TPP đã nhất trí xây dựng một bộ quy tắc
xuất xứ chung khách quan, minh bạch và dễ dự đoán nhằm xác định một sản
phẩm có xuất xứ từ khu vực TPP hay không. Ngoài ra, các đề xuất xây dựng
một hệ thống chứng nhận xuất xứ ưu đãi đơn giản, hiệu quả cũng đang được
thảo luận.
 Các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động, thực vật (SPS): Các quốc
gia thành viên đã nhất trí tăng cường và phát triển nội dung này dựa trên các
quyền và nghĩa vụ hiện tại của các bên theo Hiệp định về kiểm dịch động

 Dành đối xử tối huệ quốc (NT).
 Loại bỏ một số điều kiện đầu tư, hoặc điều kiện để được hưởng ưu đãi đầu
tư, trái với nghĩa vụ đối xử quốc gia và không áp dụng các biện pháp hạn chế
số lượng đối với sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
 Loại bỏ các hạn chế, cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung
cấp dịch vụ qua biên giới (Phương thức 1 và 2) và thành lập hiện diện
thương mại trên lãnh thổ nước mình để cung cấp dịch vụ (Phương thức 3).
 Loại bỏ yêu cầu “phải hiện diện ở nước sở tại” để được phép cung cấp dịch
vụ qua biên giới (Phương thức 1 và 2).
 Loại bỏ yêu cầu về quốc tịch của nhân sự quản lý cao cấp của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Khi thông qua đàm phán, các thành viên được quyền bảo lưu một số biện
pháp không phù hợp với các nghĩa vụ nêu trên (được gọi là các biện pháp không
tương thích – non-conforming measures). Các biện pháp này được liệt kê theo lĩnh
vực hoặc chủ đề trong Danh mục bảo lưu của Thành viên kèm theo Hiệp định. Đặc
biệt với một hiệp định có tính mở cao như Hiệp định TPP, Danh mục bảo lưu cần
phải rất rõ ràng và chi tiết.
Hiệp định TPP cho phép 2 Danh mục bảo lưu, gồm:
25

Trích đoạn Một số khuyến nghị trong thời gian đàm phán Hiệp định TPP Một số khuyến nghị sau khi kí kết để triển khai hiệu quả Hiệp định TPP Một số khuyến nghị sau khi kí kết để triển khai hiệu quả Hiệp định TPP
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status