Đánh giá tình hình nhiễm giun và các yếu tố liên quan ở học sinh mẫu giáo, cấp I, II huyện Đơn Dương, năm 2008. - Pdf 25


1 UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
SỞ Y TẾ

BÁO CÁO KẾT QUẢ
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN VÀ CÁC YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở HỌC SINH MẪU GIÁO, CẤP I, II
HUYỆN ĐƠN DƯƠNG NĂM 2008-2009.

Chủ nhiện đề tài: BSCKI. Đỗ Phú Nhựt.
Thư ký: CN. Nguyễn Thò Ngọc Hoa.
Thành viên tham gia:
1/ BS. Nguyễn Thò Bích Vân.
2/ CN. Sa Hao Dung.
3/ CN. Lương Văn Hoàng.
4/ KTV. Nguyễn Thò Vy.
5/ ĐD. Lương Thò Lan.
6/ ĐD. Nguyễn Thò Như Ly.


1. Giới thiệu đòa điểm nghiên cứu………………………………………………………………………… ….36
2. Thời gian nghiên cứu: 3/2008 – 01/2009………………………………………….………………….36
3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………………………………………….……….36
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………….………………… …….36
5. Các kỹ thuật áp dụng………………………………………………………………………….………….……… 38

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU …………………… ……………………….………42
1. Đặc điểm của mẫu ………………………………………………………………………….………………….……….42
2. Tỷ lệ nhiễm giun tròn KSTĐR ………………………………… …………………………………… … 43
3. Phân tích tình hình nhiễn giun theo thực hành vệ sinh môi trường…………….44
4. Phân tích tình hình nhiễn giun theo thói quen vệ sinh……………….……………… 45
5. Phân tích tình hình nhiễm giun theo hiểu biết của phụ huynh…………… ….46
6. Phân tích về kiến thức phòng chống bệnh giun của phụ huynh và HS ……35
Chương 4 BÀN LUẬN……………………………………………………………………………… … 50
Kết luận…………………………………………………………………… …………………………………………………… 55
Tài liệu tham khảo
3 TÌNH HÌNH ĐỊA LÝ- KINH TẾ-VĂN HÓA-XÃ HỘI
HUYỆN ĐƠN DƯƠNG
I/.ĐỊA LÝ:
1. Vò trí đòa lý:
Đơn Dương là huyện miền núi nằm ở phía Đông – Nam của tỉnh Lâm
Đồng, thuộc cao nguyên Lâm Viên. Độ cao trung bình trên 1000 mét so với
mực nước biển. Vò trí đòa lý nằm dọc theo hai bên bờ sông Đa Nhim.
2. Đơn vò hành chính:

cúm
- Tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là hộ nghèo là người dân tộc thiểu số. Trình
độ dân trí nói chung còn thấp và không đồng đều, nhất là vùng đồng bào
dân tộc. Sự nhận thức của nhân dân vùng đồng bào dân tộc về phòng chống
dòch bệnh còn nhiều hạn chế do còn một số tập tục lạc hậu nên còn nhiều
trở ngại trong công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân nói
chung và phòng chống bệnh tật nói riêng.

5
ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh ký sinh trùng Y học nói chung, ký sinh trùng đường ruột nói
riêng là bệnh phổ biến trên thế giới, nhất là các nước có khí hậu nóng ẩm
mưa nhiều, điều kiện sinh hoạt, ý thức vệ sinh còn yếu kém. Đây là bệnh xã
hội, lan truyền nhanh nhưng cũng dễ điều trò và phòng bệnh hiệu quả nếu
chúng ta hiểu rõ về chúng.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) ước tính trên thế giới có khoảng 2
tỷ người trong diện nguy cơ nhiễm ký sinh trùng, hơn 1 tỷ người thường
xuyên bò nhiễm các loại giun sán, trong đó số người nhiễm giun móc là 151
triệu người, tử vong hàng năm là 65.000 người. Số người nhiễm giun tóc là
46.000 người, tử vong hàng năm là 10.000 người. Số người nhiễm giun đũa
ước tính 250 triệu người, tử vong hàng năm là 60.000 người. Tỷ lệ nhiễm
giun kim là 40-50% dân số [13].
Việt nam là một nước nhiệt đới có nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa và các
yếu tố thổ nhưỡng phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho giun sán tồn tại và
phát triển. Theo nghiên cứu của Nguyễn Vónh Niên có đến 95% người dân
mang mầm bệnh giun sán, tỷ lệ nhiễm 2-3 loại giun sán lên đến 60-70%.
Thường gặp các loại giun đũa, giun móc, giun tóc, giun kim. Tỷ lệ nhiễm
giun kim khá cao từ 18-27%, chủ yếu ở trẻ em. [53]. Bệnh ký sinh trùng
đường tiêu hoá diễn biến có tính âm thầm lặng lẽ, người dân ít để ý nên

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1. Lòch sử nghiên cứu bệnh giun tròn KSĐR:
1.1. Lòch sử nghiên cứu bệnh giun tròn KSĐR trên thế giới:
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) 1992 trên thế giới có
hơn tỷ người nhiễm bệnh giun sán, không kể các khu vực có nguy cơ lây
nhiễm. Do tính chất phổ biến và dễ thích nghi với điều kiện ngoại cảnh của
ký sinh trùng, sự phong phú của sinh vật môi giới trung gian (như các loại
động vật, các sinh vật chân đốt, các loại giáp xác…). Vì vậy, hầu hết các
nước trên thế giới đều nhiễm ký sinh trùng. Tuy nhiên tùy thuộc vào yếu tố
nhiệt độ, sinh đòa cảnh của từng vùng, của từng khu vực mà tỉ lệ bệnh có sự
khác nhau. Trong đó sự nhận thức về bệnh tật của nhân dân đóng vai trò
quan trọng và cần thiết, đó là yếu tố quyết đònh sự tăng giảm của bệnh.
Tại các nước châu Âu do điều kiện khí hậu khô và lạnh làm hạn chế
sự phát triển của trứng giun ở môi trường. Bên cạnh đó điều kiện kinh tế và
mức sống cao, môi trường sạch, phân rác được xử lý đúng quy cách nên tỷ lệ
nhiễm giun còn rất thấp (1%). Tại các nước Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh do
khí hậu nóng ẩm, môi trường bò ô nhiễm, mức sống thấp nên tỷ lệ còn cao,
Châu Mỹ 8%, Châu Phi 12% [63].
Rajeswari và cộng sự nghiên cứu 456 mẫu phân ở trẻ đi học tại
Gombak (Malaysia) cho thấy: Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 7.9% có liên quan
đến tình hình kinh tế, vệ sinh, xử lý phân rác [60].
Bệnh giun móc đã được mô tả từ lâu trong các tài liệu y học cổ và đến
thế kỷ thứ 17 các tác giả: Jakob de Bondt (1629), Pison và Margraff (1648)
mô tả đầy đủ hơn. Triệu chứng lâm sàng của bệnh giun móc đã được mô tả

8
ở Ý, Ả Rập và BraZil từ thời kỳ Ai Cập cổ đại. Năm 1838, Dubini phát hiện
giun móc trên một tử thi của một bệnh nhân ở Milan. Trước đó giun móc đã
được mô tả ở động vật và được đặt tên là “hookworm” có nghóa là loài giun

duodenale) là do nó chui qua da”
Bệnh giun móc đã được ghi nhận ở Hoa kỳ vào năm 1845, mãi đến
năm 1893 loài giun móc này mới được mô tả, nhưng không phân biệt được
với giun móc (A. duodenale, Dubini, 1843). Năm 1902, Stiles đã mô tả và
đặt tên cho loài này là necator americanus ( N.americanus), cũng ký sinh ở
người và có thể phổ biến hơn A.duodenale ở một số nơi [91], [60], [98].
WHO (1994) [66], đã ước lượng trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người
nhiễm giun móc và 98 triệu người bò bệnh giun móc.
Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi nhiều theo độ cao, khí hậu, thổ nhưỡng và
theo các yếu tố sinh thái học hoặc con người. Chính vì vậy, tỷ lệ nhiễm
bệnh ở mỗi khu vực, ở mỗi quốc gia trên toàn cầu là cao thấp khác nhau:
*Châu Á:
-Thái Lan: Tỷ lệ nhiễm giun móc ở người dân Thái Lan vào năm
1986, miền Bắc: 35,5%, miền Trung 26,1%, miền Nam 75,9% [103]. Năm
1989, tỷ lệ nhiễm ở Chiang Mai và Bangkok là 26,3% [74]. Upatham E.S
(1989) cho thấy tỷ lệ mới mắc ở vùng ngoại ô miền Nam Thái Lan là 23,1%
[119]. Pitisuttithum P. (1990): tỷ lệ nhiễm ở ngoại ô Bangkok là 25,5%
[109].
-Indonesia: Năm 1982, tỷ lệ nhiễm giun móc ở nông thôn miền Bắc
Sumatra là 61,1% [118]. Tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em: 47,7%; người lớn:
89,4%, trong đo ùN.americanus chiếm tỷ lệ 73,8%, A.duodenale: 4,7%, nhiễm
phối hợp hai loài là 21,5%[102].

10
-Philippin: Năm 1980, tỷ lệ nhiễm giun móc: 73,0%, người lớn cao
hơn trẻ em [54]. Năm 1987, tỷ lệ nhiễm ở đảo Palawai là 34,8%. Năm 1990,
tỷ lệ nhiễm ở vùng nông thôn nuôi cừu: 10% [90].
-Malaysia: năm 1983, tỷ lệ nhiễm giun móc ở nông dân: 43,3%, dân
cư ngoại ô thủ đô Kualumpur: 7,1% [94], [104], [105].
-Trung Quốc: Năm 1999, tỷ lệ nhiễm giun móc ở người dân > 15 tuổi

0%, nhưng ở nông thôn thì tỷ lệ nhiễm rất cao (76,0%) [99], [121].
*Châu Âu:
Hiện nay, các nước Châu Âu tỷ lệ nhiễm giun móc rất thấp, tuy nhiên
do sự di biến động dân cư, đã xuất hiện thuật ngữ “bệnh nhập khẩu”. Ockert
G.(1983), thấy tỷ lệ nhiễm ở người ngoại quốc từ Đông Nam Á, châu Phi và
châu Mỹ đònh cư tại Đông Đức là 17,9% [86]. Năm 1973 – 1981, tỷ lệ
nhiễm chung ở người dân Đông Nam Á đònh cư tại Đông Đức là 21% [121].
-Năm 1758 Linné người đầu tiên nghiên cứu và mô tả giun kim hiện
được nhiều tác giả và nhiều sách ghi nhận.
-Năm 1889 Cobbod bắt đầu phát hiện chu kỳ sống của giun kim, ông
ta nêu lên rằng thời gian sống của giun kim chỉ kéo dài 2 tuần.
-Năm 1899 Stiles, K.Blanchara ở Pari trong công trình nghiên cứu về
bệnh giun kim đã cho rằng: Giun kim thường làm ruột thừa tiết chất nhày,
làm dày thành ruột thừa.
-Năm 1901 – 1904 Moty – Begouid, Hoepff nêu lên mối quan hệ giữa
ruột thừa viêm và giun kim, kết luận của các tác giả này: Giun kim là một
trong những nguyên nhân gây ra viêm ruột thừa.
-Năm 1925 Nlemmikavaston ở Đức điều tra về tình trạng nhiễm giun
kim của trẻ em ở Berlin ghi nhận trẻ em nam nhiễm với tỷ lệ 71%, nữ 64%.

12
-Năm 1929 Scriabine – Shoulz ở Liên Xô đã đề xuất phương pháp
dùng que dẹp cạo rìa hậu môn để xét nghiệm trứng giun kim.
-Năm 1935 Standen mô tả giun kim và sắp xếp chúng vào những họ,
giống, loài trong hệ thống phân loại giun sán.
-Năm 1937 Hall dùng cellophane bọc đầu que thủy tinh ấn vào rìa hậu
môn để xét nghiệm giun kim.
-Năm 1941 Graham lại đề xuất một phương pháp xét nghiệm mới ứng
dụng dễ dàng và rất phổ biến đó là phương pháp dùng băng nhựa dính [31]
[46].

trên 80%. Tỷ lệ nhiễm giun ở nông thôn cao hơn thành thò, ở đồng bằng cao
hơn miền núi [19]. Do điều kiện vệ sinh môi trường còn kém, ý thức của
người dân chưa cao nên sự ô nhiễm trứng giun đũa trong môi trường sống
còn rất cao: trên 450 mẫu đất có 92.5 – 100% mẫu đất vùng nông nghiệp bò
nhiễm trứng giun trung bình với 7.5 – 127/100g đất [42].
Theo Nguyễn Hứa Phục (1986) cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa ở nông
thôn là 68.4%, ở Thành phố là 61.5% không có sự khác biệt có ý nghóa [56].
Tuổi nhiễm giun đũa của nước ta rất sớm, từ 4 tháng tuổi đã xét
nghiệm thấy trứng giun trong phân [57].
Ở hai xã Nhật Tân và Hoàng Tây Huyện Kim Bảng Tỉnh Nam Hà tỷ
lệ nhiễm giun đũa chung trong cộng đồng là 86.41% [53].
Nhiễm giun của học sinh Khmer ở một số trường cấp I – II Tỉnh Tiền
Giang là 85% trong đó giun đũa là 32% [13].
Riêng tại Huế theo điều tra của bệnh viện Trung ương Huế 1985 –
1995 tỷ lệ là 49.6% [81]. Theo Ngô Chân (1994) tỷ lệ nhiễm giun đũa ở
trường mẫu giáo mầm non TP. Huế là 47.18% [14]. Tại xã Thủy Dương TP
Huế tỷ lệ nhiễm giun là 81.1% [15].

14
Bệnh giun sán nói chung, bệnh giun móc nói riêng đã được biết từ lâu,
dưới thời Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tónh bệnh giun móc đã được mô tả
các triệu chứng lâm sàng và đưa ra các bài thuốc nam để điều trò [12].
Năm 1936, Đặng Văn Ngữ tiến hành điều tra cơ bản các loài giun sán
y học ở Việt Nam, xác đònh tình hình nhiễm giun sán nghiêm trọng ở người.
Nhưng đến năm 1945, những nghiên cứu về bệnh giun sán cũng mới chỉ giới
hạn trong phạm vi đô thò lớn, chưa có một điều tra cơ bản nào mở rộng ở
khắp mọi tỉnh thành Việt Nam.
Sau năm 1945, các nghiên cứu về giun sán y học được đẩy mạnh, đã
có những điều tra cơ bản trên diện rộng, nghiên cứu đặc điểm hình thể, sinh
học, bệnh học giun móc ở việt Nam [12].

* Phạm Tử Dương 1957 ở Miền Bắc.
* Hoàng Nguyên Dực 1958 ở Hà Nội với luận án tốt nghiệp y khoa về
đề tài giun kim đầu tiên ở nước ta.
Chủ yếu các tác giả này thống kê tỷ lệ nhiễm giun kim trên các cuộc
điều tra với phạm vi rộng lớn, đồng thời thử tác dụng tẩy giun với nhiều loại
hóa dược đã được đề xuất trong dược điển.
Những năm trước đây ở Hà Nội, các tác giả Nguyễn Phan Long,
Nguyễn Thò Loan, Trần Thò Nhung [21] và nhiều cộng sự tiếp tục điều tra
tình hình nhiễm giun sán nói chung, giun kim nói riêng ở các nhà trẻ Phú
Diễn, Mộc Châu, Hà Nội.
Ở Miền Nam có Nguyễn Thò Song Hỷ và cộng tác viên điều tra về tỷ
lệ nhiễm là 47%.

16
Hồ Thò Đức và cộng sự tiến hành điều tra ở trẻ em các nhà trẻ Thò xã
Quy Nhơn ghi nhận tỷ lệ nhiễm giun sán nói chung, trong đó có giun kim là
61,85%.
Tỷ lệ trẻ em nông thôn mắc bệnh giun kim cao hơn ở Thành phố, trẻ
em nữ cao hơn trẻ em nam (nam 40,89%, nữ 45,48%) [12].
Mật độ nhiễm giun tăng nhanh ở độ tuổi 1 – 5 và sau đó giảm dần (trẻ
em dưới 1 tuổi: 1,88%, độ tuổi 1 – 5: 51,16%). Trẻ em sống tập thể có tỷ lệ
nhiễm cao hơn trẻ em sống tại gia đình. Ở người lớn có tỷ lệ nhiễm thấp
[12].
Điều tra tại một nhà trẻ thấy 62% móng tay trẻ em có trứng giun, 12%
sách vở có trứng. Nghiên cứu một chiếc chiếu tìm thấy 257 trứng.
1.3. Tình hình nghiên cứu bệnh giun tròn KSĐR ở Lâm Đồng:
Kết quả khảo sát của chương trình Tây Nguyên II: [13].
Tháng 9/1987 trong cộng đồng Đinh Trang Hoà-Di Linh, tỷ lệ nhiễm
giun chung 87,9% (Giun đũa 48,4%, giun móc 33,8%, giun tóc 5,7%, nhiễm
phối hợp 11,9%). Lộc Bắc-Bảo Lộc tỷ lệ nhiễm giun chung 90,3% (Giun

trưởng thành giun cái dài 20 – 30cm đuôi thẳng, đường kính 2 – 6 mm, giun
đực dài 20 – 25cm, có gai giao hợp. Giun đũa có màu trắng sữa hoặc hơi
hồng khi quan sát thấy [29]:
Đầu: Thon nhỏ có môi xếp cân đối, bao bọc ngoài môi là tầng vỏ
cứng trong, dưới tầng đó có một lớp hạ bì cấu tạo thành tủy môi, dựa vào đó
để đònh loài.
Thân: Được bọc bởi một lớp vỏ cứng, có chia thành từng ngấn vòng
quanh đều từ thân đến đuôi.

18
Đuôi: Nhọn gần cuối đuôi sát về phía bụng là lỗ hậu môn, ở con đực
lỗ hậu môn là lỗ phóng tinh, ở con cái là lỗ đẻ nằm 1/3 trước của thân,
ngang chỗ này giun hay thoắt lại.
Các cơ quan bên trong:
Bộ máy tiêu hóa: Gồm có ba môi ở phía đầu là bộ phận đònh hướng,
hướng dẫn giun đến vùng có thức ăn, ống tiêu hóa thì đơn giản vì thức ăn đã
được người tiêu hóa rồi.
Bộ phận sinh dục: Giun cái: Gồm hai ống, phần đầu nhỏ có tác dụng
như phòng chứa trứng, phần sau lớn dần có tác dụng như hai vòi trứng. Hai
vòi trứng này đến lỗ sinh dục cái thì tập trung thành âm đạo và đổ ra lỗ đẻ.
Trứng giun đũa: Hình trái xoan, kích thước 45 – 75 x 35 – 50 mm, có 3
lớp vỏ: Ngoài có vỏ Albumine sần sùi, bắt màu vàng nâu với muối mật, vỏ
giữa dày màu trong và trong cùng là một lớp mỏng, bền có sức chống đỡ với
hóa chất cao. Bên trong trứng có chứa nhân xẩm màu, khi trứng thụ tinh thì
lớp vỏ Albumine bóc ra.
Theo Browen và Cort, trong thân giun cái có thể chứa tới 27 triệu
trứng và mỗi ngày đẻ khoảng 200.000 trứng, khối lượng trứng giun đẻ ra
trong một năm bằng 1.700 lần khối lượng của nó. Giun cái đạt 15cm chiều
dài có thể đẻ trứng.
Giun đực: Bộ phận sinh dục đực là một ống nhỏ, phần đầu nhỏ hơn có

Trứng giun đũa không phát triển ở trong ruột người mà ra ngoài mới
phát triển được, nhiệt độ thuận lợi ở môi trường từ 24 – 25
o
C. Ở nhiệt độ
này trong vòng 12 – 15 ngày, trứng đã phát triển thành ấu trùng. Tuy nhiên,
trứng vẫn phát triển trong giới hạn từ 12 – 36
o
C, dưới 12
o
C

trứng không
phát triển.

20
Nhiệt độ 60
o
C trong vài giờ mới có khả năng diệt trứng, độ ẩm 80%
thì thuận lợi cho sự phát triển của trứng. Điều kiện ngoại cảnh, ánh sáng
mặt trời có khả năng diệt trứng mạnh. Trứng ở trong nước không phát triển
được, nếu ở đó quá lâu từ 6 – 10 tháng cũng bò diệt.
Đối với hóa chất, trứng giun đũa có sức chòu đựng cao, Formol 16%
không có khả năng diệt trứng, các dung dòch, thuốc sát khuẩn thông thường
như thuốc tím không có khả năng diệt trứng mạnh.
Độ tối có khả năng ngăn cản sự phát trển của trứng giun đũa. Đây là
một yếu tố hủy diệt trứng giun đũa của hố xí hai ngăn [49].
Do số lượng trứng giun đũa được bài xuất ra theo phân lớn cùng với
sức đề kháng của trứng rất cao nên giun đũa là loại phổ biến ở Việt Nam và
trên thế giới.
Người mắc bệnh là nguồn lây duy nhất. Mầm bệnh: Trứng thụ tinh có

O
C trứng sống 9 ngày. Các chất sát trùng khó tiêu diệt trứng,
vì trứng có vỏ dày. Người ăn phải trứng có ấu trùng sẽ bò nhiễm giun. Thời
gian hoàn thành chu kỳ là 1 tháng. Giun sống 5- 6 năm.
+Giun móc: Hiện nay đa số các tài liệu sử dụng cách phân loại của
Chitwood (1937). Theo cách phân loại này, giun móc ký sinh và gây bệnh ở
người có hai loài: A.duodenale và N.americanus. Hai loài này thuộc lớp
Nematode, lớp phụ Myosiringata,bộ Strongylata, bộ phụ II Strongyloidae, và
thuộc họ Ancylostomidae.Trong họ Ancylostomidae có hai giống:
Ancylostoma và Necator. Trong giống Ancylostoma có nhiều loài, trong số đó
có: Ancylostoma braziliens; Ancylostoma ceylanicum; Ancylostoma caninum;
Ancylostoma malayanum; A.duodenale. Trong giống Necator có loài
N.americanus ký sinh ở người [63], [64], [88], [89].
Việc đònh loài giữa A.duodenale và N.americanus chủ yếu dựa vào
hình thể giun trưởng thành với ba đặc điểm sau: Bộ phận sắc của bao miệng,
hình thể đuôi giun đực, tư thế của thân giun [45], [108].
Trứng N.americanus dài và thon hơn trứng A.duodenale, trứng của hai
loài hình trái xoan, vỏ mỏng, trong suốt không bắt màu, trứng lúc sinh ra đã
có 4 - 8 phôi bào. Kích thước trứng N.americanus khoảng chừng 70
micromét, trứng của A.duodenale khoảng 60 micromét [45], [67].

22
Do ấu trùng của A.duodenale và N.americanus có những điểm khác
nhau về hình thể, nên có thể dựa vào đó để đònh loài theo khóa đònh loài
giun móc/ mỏ của Sasa 1958 [5]. Những điểm khác nhau chính như:
N.americanus: Mồm đậm như dấu chấm than, bao đuôi cong.
A.duodenale: Mồm mờ, mảnh, bao đuôi thẳng, hoặc dựa vào khóa
đònh loài ấu trùng giun móc có thực quản hình trụ trong cấy phân người do
Pawlowski Z.S.(1991) đề xuất [108].
Theo Đỗ Dương Thái (1972 – 1976) đònh loài ấu trùng giun móc có

vùng nhiễm phân vào các ao hồ, đầm lầy. Nhiễm bệnh nặng có thể xảy ra ở
những vùng nhiễm bẩn thứ phát này. Mật độ của ấu trùng thay đổi tuỳ theo
mùa và tuỳ theo tính chất tiếp cận của đất với phân [88]. Phạm Hoàng Thế
(1969) thấy rằng: “Trong những mùa ít nắng, có mưa, ấu trùng giun móc có
nhiều hơn những mùa nắng nhiều hoặc khô ráo”, Kiều Tùng Lâm thấy: “âáu
trùng tập trung nhiều quanh hố xí, quanh những nơi ủ phân” [64].
- Các thói quen phóng uế: Do ấu trùng giun móc không di chuyển theo
chiều ngang nên nhiễm giun móc nặng thường cần phải có sự tiếp xúc trực
tiếp với đất ô nhiễm phân ở những vùng đất phóng uế.
+Giun kim: Giun kim thuộc loại Enterobius vermicularis, giống
Entrobius, họ Oxyuridae được Linné mô tả năm 1758 [37].
nh hưởng và tác hại của giun kim rất lớn không những đối với người
mà cả đối với gia cầm, gia súc khác. Chính vì vậy mà đã có nhiều công trình
nghiên cứu về giun kim [35].
Giun kim trưởng thành: Giun kim là loại giun hình ống có kích thước
bé, màu trắng, hai đầu nhọn, miệng gồm 3 môi tiếp liền với thực quản, phần
cuối thực quản có một khúc phình ra goiï là u phình thực quản. Đây là đặc
điểm quan trọng để nhận biết giun kim.

24
Giun kim cái có kích thước dài 9 – 12mm, rộng 0,6mm, đuôi thẳng,
nhọn. Bộ phận sinh dục gồm hai buồng trứng nhỏ, hai ống dẫn trứng rất to,
bên trong chứa đầy trứng xếp thành hai hàng trước và sau thân giun. Hai ống
dẫn trứng này đổ vào ông dẫn trứng nhỏ ngắn để đổ ra lỗ sinh dục cái ở nữa
trước của thân.
Giun kim đực nhỏ hơn, có kích thước dài 2 – 5mm, rộng 0,2mm, đuôi
cong, gấp về phía bụng, cuối đuôi thường có một gai sinh dục lòi ra phía
ngoài. Bộ phận sinh dục đực gồm hai tinh hoàn hình ống và ống dẫn tinh.
Trứng giun kim: Trứng có hình bầu dục, không cân đối, một mặt
phẳng, một mặt lồi, lép một góc. Kích thước chiều dài từ 50 – 60 micrômét,

sống của giun kim trong ruột người chỉ trong vòng 1 – 2 tháng. Chu kỳ giun
kim rất đơn giản, thời gian hoàn thành chu kỳ nhanh. Trứng đẻ ra chỉ trong
vòng 6 – 8 giờ sau đã hình thành ấu trùng có khả năng lây nhiễm.
Chu kỳ phát triển khác của giun kim:
-Sự tái nhiễm: Giun kim đẻ trứng ở nếp nhăn hậu môn, gây ngứa, trẻ
em dùng tay gải cho bớt ngứa, xong đưa tay nhiễm trứng lên miệng và trực
tiếp nuốt trứng vào. Sự tái nhiễm thường xảy ra ở trẻ kém vệ sinh. Chu kỳ
này làm cho bệnh nhân bò tái nhiễm nhanh và kéo dài.
-Hiện tượng nhiễm ngược: Trứng ở hậu môn nở thành ấu trùng, ấu
trùng trực tiếp chui vào hậu môn, đi ngược theo khung đại tràng đến manh
tràng để phát triển thành giun trưởng thành sau 3 – 4 tuần (hiếm gặp).
-Trứng giun kim khi mới đẻ ra thường đã có ấu trùng, chỉ cần ẩm độ
thích hợp, nhiệt độ 30
0
C, có oxy sau 4 đến 6 giờ trứng giun kim phát triển
thành trứng có ấu trùng cử động được, có khả năng lây bệnh.
-Nhiệt độ dưới 20
0
C và nhiệt độ trên 40
0
C trứng không phát triển
được. Ở 60
0
C vài phút là trứng đã hỏng. 15
0
C sau 1 giờ trứng cũng hỏng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status