Một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho học sinh qua sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông - Pdf 25


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN HỒNG NHUNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HỌC SINH QUA SỬ DỤNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 10 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thế Bình
HÀ NỘI - 2012
120
Chƣơng 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG TỰ HỌC
CHO HS QUA SỬ DỤNG TLTK TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở
TRƢỜNG THPT (VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC LSVN 1945-1954) 52
2.1. Mục tiêu, cấu trúc, nội dung cơ bản của chương trình lịch sử THPT 52
2.1.1. Mục tiêu 52
2.1.2. Cấu trúc, nội dung cơ bản 53
2.2. Vị trí, vai trò, nội dung cơ bản của chương trình LSVN 1945 - 1954 55
2.3. Một số yêu cầu sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học Lịch sử 57
2.4. Một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng tài liệu
tham khảo trong dạy học lịch sử (vận dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1945-1954) 59
2.4.1. Phát triển kỹ năng phát hiện kiến thức cơ bản qua TLTK 59
2.4.2. Phát triển kỹ năng so sánh, đối chiếu TLTK với SGK để khắc sâu kiến thức
cơ bản 65
2.4.3. Phát triển kỹ năng dùng TLTK để trả lời câu hỏi 68
2.4.4. Phát triển kỹ năng trình bày kiến thức thu được từ TLTK 71
2.4.5. Phát triển kỹ năng sưu tầm TLTK 81
2.4.6. Phát triển kỹ năng ghi chép TLTK 86
2.4.7. Phát triển kỹ năng biết thắc mắc, đặt câu hỏi và tìm cách tự trả lời 89
2.4.8. Phát triển kỹ năng tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập qua TLTK 92
2.4.9. Phát triển kỹ năng sử dụng TLTK để chuẩn bị cho các hoạt động ngoại khóa 94
2.5. Thực nghiệm sư phạm 102
2.5.1. Mục đích thực nghiệm 102
2.5.2. Đối tượng thực nghiệm 102
2.5.3. Nội dung thực nghiệm 103
2.5.4. Phương pháp thực nghiệm 103
2.5.5. Kết quả thực nghiệm 103

hành Trung Ương Đảng lần thứ VIII về “Định hướng chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo” (12/1996) nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh”[34, tr. 11]. Để thực hiện được định hướng đó, đòi hỏi học sinh
phải nghiên cứu trước bài học, đọc thêm các tài liệu liên quan, đề xuất vấn
đề… Hàng loạt công việc độc lập trên chỉ có thể giải quyết được bằng con
đường tự học.
Tự học của HS là vấn đề quan trọng vì đó là một khâu trong quá trình
thống nhất của việc tự học. Tự học là 1 trong những yếu tố quyết định chất
lượng giáo dục. Người dạy dù cố gắng đến đâu nhưng người học không động
não, không tự tìm tòi, suy nghĩ trong quá trình lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo thì kết quả dạy học không thể tốt được. Vì vậy, có thể khẳng
định tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả học tập ở trường phổ
thông. Rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT có vị trí quan trọng trong
việc thực hiện mục tiêu bộ môn và góp phần đào tạo ra những con người lao
động có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên.

5
Có thể nói, tự học là khả năng tiềm tàng trong mỗi con người. Vấn đề
tự học đã được quan tâm, nhiều trường phổ thông đã tổ chức hội thảo bàn về
đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên đa số mới chỉ dừng lại ở lý luận,
còn trong thực tiễn dạy học, GV vẫn còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Nhiều GV và HS vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc tự học nên
chưa quan tâm chú trọng tới việc rèn kỹ năng này.
Đối với môn Lịch sử, còn nhiều quan niệm lệch lạc cho rằng: Lịch sử là
môn phụ; chỉ cần học thuộc sự kiện, không cần tư duy sáng tạo, học Lịch sử
không phục vụ nhiều cho cuộc sống Do đó, môn Lịch sử không được coi

Như vậy, ở phương Đông người ta đã nghiên cứu về tự học từ rất lâu.
Song tự học mới chỉ được nghiên cứu chung chung, khái quát, chưa được
nghiên cứu sâu, nhất là về kĩ năng tự học. Họ chỉ mới dừng lại ở việc khẳng
định vai trò quan trọng của hoạt động tự học – yếu tố quyết định sự thành
công của mỗi người.
Đối với các nhà khoa học phương Tây, vấn đề này cũng được quan tâm,
nghiên cứu sâu trên từng khía cạnh cụ thể.
Nhà giáo dục vĩ đại của Hi Lạp cổ đại Xôcrat (469-399 TCN) được biết
đến với phương pháp dạy học gọi là “thuật đỡ đẻ” nhằm phát huy tính tích
cực tư duy của HS. Ông quan niệm: trong mỗi con người luôn chứa đựng kiến
thức tiềm ẩn, trách nhiệm của nhà giáo dục là phải khơi gợi những tiềm ẩn đó
cho HS.
J.A.Cômenxki (1562-1670) nhà sư phạm Tiệp Khắc thể kỷ XVII đã
đưa ra những biện pháp dạy học hướng HS phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm
được bản chất của sự vật, hiện tượng. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho
HS của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc
ứng dụng vào thực tiễn” Ông cũng cho rằng, tính tự lực, tự giác phải được
hình thành và rèn luyện ngay từ nhỏ: “giáo dục tính tự lực cho trẻ mẫu giáo
là việc quan trọng” [17, tr. 36]

7
J.J.Rousseau (1712-1778), người Thụy Sĩ cho rằng phải hướng HS tích
cực đánh giá kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Ông nói:
“Đừng cho trẻ em học khoa học mà hãy để cho nó tự phát minh ra” [17, tr. 36]
Theo Tohr Dewey (1859-1952), người Mĩ thì: “Việc dạy học phải kích
thích được hứng thú, phải để HS độc lập tìm tòi, thầy giáo là người thiết kế,
người cố vấn” [17, tr. 37]
Trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào”, tiến sĩ
N.Đ.Đairi đã trình bày các nguyên tắc cơ bản trong giờ học lịch sử ở trường
THPT. Ông đưa ra các yêu cầu để một gờ học đạt hiệu quả cao: chuẩn bị tốt

ông đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục và hoạt động tự học của con người để
giúp con người sáng tạo ra những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, xã hội.
Tóm lại, các quan điểm trên tuy đề cập đến những góc độ khác nhau
nhưng đều khẳng định năng lực thực tiễn của trẻ em dưới hình thức tự học, tự
phát triển.
2.2. Các tác giả trong nước
Theo chiều dài của lịch sử, nền giáo dục có sự chuyển biến sâu sắc.
Quan niệm về tự học không giống nhau qua mỗi thời kỳ.
Do ảnh hưởng của văn hóa-giáo dục Trung Hoa thời phong kiến, việc
tự học được thực hiện một cách máy móc, kĩ năng chủ yếu là ghi nhớ kiến
thức, học thuộc lòng. Thời Pháp thuộc do những chính sách cai trị của thực
dân Pháp, nền giáo dục bị kìm nén, trì trệ. Do đó, tự học chưa được bàn đến.
Sau 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, một số nhà giáo dục có tư tưởng
tiến bộ đã quan tâm đến vấn đề tự học như: Trần Kim Bảng, Nguyễn Duy
Cần, Lê Đinh Ngọc Ân… Tuy nhiên các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu một
cách hệ thống toàn diện hoạt động, nhất là kỹ năng tự học của HS. Họ chỉ mới
dừng lại ở việc tổng kết kinh nghiệm giảng dạy, tự học của cá nhân.
Hoạt động tự học chỉ thực sự được quan tâm dưới nền giáo dục XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập sâu sắc đến vấn đề học tập và tự học. Bác

9
dạy: “Trong học tập, phải lấy tự học làm cốt”, “phải tự nguyện, tự giác, coi
học tập là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành nhiệm
vụ, phải tích cực chủ động hoàn thành kế hoạch học tập”. [54, tr. 14] Tư
tưởng đó của Người được Đảng vận dụng và là quan điểm chỉ đạo được đề ra
từ nghị quyết Trung Ương Đảng lần 2 khóa VIII về đổi mới phương pháp dạy
học ở tất cả các bậc học, ngành học. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định
ở Nghị quyết Trung ương Đảng khóa IX.
Ngày nay, trung tâm nghiên cứu tự học – tự đào tạo với sự tham gia của
giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Khánh Bằng, Vũ Văn Tảo… đã ra đời. Trên

Ngoài ra, vấn đề này cũng được đề cập đến trong cuốn “Hệ thống các
phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS” do PGS Trịnh Đình Tùng chủ
biên. Thông qua tìm hiểu việc tự học của HS, tác giả nêu rõ mối quan hệ mật
thiết giữa phương pháp giảng dạy của GV với phương pháp học tập của HS
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Vấn đề tự học đã được luận bàn sôi nổi trên các tạp chí như: Giáo dục
và thời đại; Nghiên cứu giáo dục; Nghiên cứu Lịch sử; tạp chí Giáo dục. Các
bài viết: “Một vài suy nghĩ về đổi mới nội dung giảng dạy lịch sử ở trường
phổ thông hiện nay” của tác giả Nghiêm Đình Vì và Trịnh Đình Tùng trên
tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5/1991, “Về biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học Lịch sử” của PGS Trịnh Đình Tùng trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục số
5/1994, “Bồi dưỡng khả năng tự học cho HS THCS” (Th.S Võ Hoàng Ngọc,
tạp chí Giáo dục), “Đổi mới việc chỉ đạo hoạt động tự học ở nhà của HS”
(Vũ Duy Yên, “Dạy phương pháp học cho HS” (PGS TS Nguyễn Văn Đản),
“Tự học-một chìa khóa vàng của giáo dục” (GS Phan Trọng Luận), “Tạo
hứng thú tự học bộ môn Lịch sử cho HS” (Nguyễn Thị Thế Bình, tạp chí giáo
dục số 258 năm 2011) đã đi sâu nghiên cứu vào các khía cạnh khác nhau của
vấn đề tự học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn.

11
Đặc biệt là hội thảo khoa học “Nghiên cứu phát triển – tự học – tự đào
tạo” tổ chức tại Hà Nội ngày 6/1/1998 với nhiều bài phát biểu, bài viết xung
quanh vấn đề tự học, phát huy nguồn lực con người và các biện pháp cần
được tiến hành đồng bộ hiện nay để phát triển năng lực tự học nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo.
Bên cạnh đó, vấn đề tự học được đi sâu tìm hiểu qua luận án và luận
văn thạc sĩ như:
Luận án tiến sĩ: Trần Văn Hiếu với “Xây dựng quy trình làm việc độc
lập với sách và tài liệu học tập cho HS”; Trịnh Khắc Hậu với đề tài “Một số
biện pháp quản lý tự học cho HS trường nội trú Đồ Sơn”; Ngô Đình Qua với

và các tỉnh phía Bắc như: THPT Phạm Hồng Thái (Hà Nội), THPT Trần
Hưng Đạo (Hà Nội), THPT Hồng Thái (Đan Phượng, Hà Nội), THPT Hùng
Vương (Thái Bình), THPT Chuyên Hạ Long (Quảng Ninh), THPT Chuyên
Amsterdam (Hà Nội), Trung tâm GDTT Thuận Thành (Bắc Ninh)
5. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng tự
học với TLTK cho HS THPT, đề tài đi sâu đề xuất một số biện pháp phát
triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng TLTK trong dạy học lịch sử ở
trường THPT (vận dụng qua phần LSVN giai đoạn 1945-1954, lớp 12 THPT -
Chương trình chuẩn).
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tự học nói chung và tự học của HS qua
sử dụng TLTK lịch sử nói riêng.
- Tìm hiểu thực tiễn việc phát triển kỹ năng tự học của HS THPT qua
sử dụng tài liệu tham khảo.

13
- Tìm hiểu khái quát chương trình Lịch sử THPT và đi sâu tìm hiểu
chương trình Lịch sử Việt Nam 1945-1954 làm căn cứ để xác định, đề xuất
một số biện pháp phát triển kỹ năng tự học cho HS qua sử dụng TLTK.
- Thực nghiệm sư phạm và đánh giá hiệu quả của các biện pháp đã
đề xuất.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã tiến hành các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sưu tầm, đọc và phân tích các
nguồn tài liệu như: sách, báo, Internet, tạp chí, luận văn, luận án đề cập các
vấn đề liên quan đến đề tài luận văn tốt nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm: quan sát, dự giờ, 15
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG TỰ HỌC CHO HS QUA SỬ DỤNG TLTK TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1.Khái niệm tự học
Có nhiều quan điểm khác nhau về tự học. Rubakin trong cuốn “Tự học
như thế nào” đã kết luận rằng: “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra cho mình câu
hỏi rồi tự tìm lấy câu trả lời, đó là phương pháp tự học”. Ông cho rằng tự học
không chỉ là xem sách mà còn phải biết so sánh cái viết trong sách với thực tế
cuộc sống, biết liên hệ giữa các môn khoa học. Không nên sợ bất đồng ý kiến
với người khác, không nghiên cứ cái chung chung mà phải nghiên cứu vấn đề
đang trao đổi, thảo luận – “hãy học bằng tất cả lí trí, tâm hồn, cảm xúc của
chính mình”. Như vậy, với Rubakin tự học là một quá trình người học tự so
sánh, đối chiếu hỏi và đáp, so sánh lý thuyết và thực hành, giữa sách vở với
thực tế cuộc sống từ đó rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng tạo.
Theo GS TS Đặng Vũ Hoạt thì “Tự học là một hình thức hoạt động
nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính
bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, hoặc không theo
chương trình SGK đã được quy định. Tự học có quan hện chặt chẽ với quá
trình dạy học nhưng nó có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân
[25, 174]
Đối với GS Nguyễn Cảnh Toàn, thì “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình

học tập. 17
1.1.1.2. Khái niệm kỹ năng
Có nhiều ý kiến khác nhau về kỹ năng.
Ph.N Gônôbôlin cho rằng: “Kỹ năng là phương thức tương đối hoàn
chỉnh của việc thực hiện những hành động bất kỳ nào đó. Các hành động này
được hoàn thành trên cơ sở của các trí thức, kỹ năng và kỹ xảo – những cái
con người được lĩnh hội trong quá trình hành động” [53, tr. 165]
N.D. Levitôv cho rằng: “Kỹ năng là khả năng con người thực hiện một
hành động bất kỳ nào đó hay các hành động trên cơ sở của kinh nghiệm –
những cái đã được lĩnh hội từ trước” [53, tr. 166]. Theo M.A Đanilốp và
M.N xcatkin: “Kỹ năng bao giờ cũng xuất phát từ kiến thức, dựa trên kiến
thức, kỹ năng chính là kiến thức trên hành động” [51, tr. 10]
E.P Êxipôp trong giáo trình “Những cơ sở của lý luận dạy học” (Nxb
Giáo dục, 1971), tập 2 cho rằng: kỹ năng chính là khả năng con người biết sử
dụng một cách có mục đích, sáng tạo những tri thức và kỹ xảo của mình trong
quá trình hoạt động thực tiễn.
Trong nước, cá nhà tâm lý học, giáo dục cũng có những quan điểm
khác nhau về kỹ năng:
Theo GS Trần Bá Hoành: “Kỹ năng chính là khả năng vận dụng những
tri thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào hoạt động thực tiễn”
[52, tr. 14]
PGS TS Phạm Viết Vượng khẳng định: “Kỹ năng là khả năng thực hiện
thành công một loại công việc trên cơ sở nắm vững lý thuyết. Kỹ năng được
hình thành trong quá trình rèn luyện lâu dài” [71, tr. 78]
GS TS Nguyễn Thị Côi cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết
quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh
nghiệm đã có để hành động phù hợp với những kinh nghiệm cho phép” [12,

Nguyễn Kỳ đưa ra các quan điểm khác nhau nhưng nhìn chug đều thông nhất

19
rằng: Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hoạt
động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội
hay các cá nhân trong tình huống khác nhau, trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ
xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng trong hành động.
Như vậy, kỹ năng và năng lực đều là sản phẩm của quá trình đào tạo,
rèn luyện (bao gồm cả tự đào tạo, tự rèn luyện). Kỹ năng có tính riêng lẻ, cụ
thể, còn năng lực có tính tổng hợp, khái quát. Kỹ năng là bộ phận cấu thành
năng lực của con người trong hoạt động thực tiễn.
1.1.1.3. Kỹ năng tự học và tự học lịch sử
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện có kết quả hoạt động tự học cũng
như những hiểu biết về hoạt động tự học và kỹ năng tự học mà người học đã
được lĩnh hội trong hoạt động dạy học.
Trong dạy học Lịch sử, quan niệm về vấn đề tự học của HS là quan
trọng để giúp cho GV xác định các phương pháp dạy học thích hợp.
Trước đây đã tồn tại một số quan niệm sai lầm cho rằng: HS chỉ cần
nhớ một số điều cơ bản, thuộc lòng một số sự kiện, tóm tắt sơ lược nội dung
SGK, không có tư duy, không cần thực hành. Quan niệm này đã làm nghèo
nội dung, hạ thấp chất lượng, hứng thú học tập và khả năng tự học của HS.
Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta cần có quan
niệm đúng về tự học Lịch sử của HS.
Tự học LS là việc HS tự nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính
xác, vững chắc, được suy nghĩ nhận thức sâu sắc và có thể vận dụng một cách
thành thạo.
Như vậy, tự học lịch sử của HS là việc tự nắm vững kiến thức lịch sử
và vận dụng thành thạo. Đó là quá trình đi từ biết đến hiểu đến vận dụng. Học
tập lịch sử là quá trình nhận biết những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã
hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai.

21
Bản chất của tự học lịch sử là quá trình nhận thức một cách tự giác, tích
cực, sáng tạo của người học mà không có sự tham gia trực tiếp của GV nhằm
đạt được mục đích, nhiệm vụ học tập bộ môn. Thực chất chính là sự tự lực
của người học trong việc tìm kiếm tri thức cho bản thân, tức là tự tổ chức, tự
điều khiển, tự điều chỉnh, tự kiểm tra, tự đánh giá quá trình học tập.
Sự hướng dẫn của thầy là quan trọng nhưng nếu không có sự nỗ lực, cố
gắng của trò thì kết qua học tập sẽ không cao. Thực tiễn đã chứng minh nếu
thầy có kiến thức uyên thâm đến đâu nhưng nêu HS không đầu tư thời gian tự
học, không có kế hoạch học tập hợp lý thì không thể biến tri thức của nhân
loại thành của mình được. Do đó, muốn nâng cao chất lượng dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông, cần hướng dẫn HS quy
trình tự học, tự nghiên cứu qua các tài liệu học tập.
1.1.1.4. Phát triển kỹ năng tự học lịch sử
Phát triển theo từ điển tiếng Việt nghĩa là mở mang từ nhỏ thành to, từ
yếu thành mạnh.
Phát triển kỹ năng được hiểu là nâng cao khả năng cho HS trong việc
thực hiện hệ thống các thao tác nhằm làm biến đổi đối tượng, đối chiếu chúng
với hành động cụ thể để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng.
Theo GS TS Nguyễn Thị Côi, để hình thành một kỹ năng phải trải qua
nhiều bước :
Trước hết, HS cần nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều
kiện hành động. Đồng thời với việc nhận thức đúng mục đích, cần phải nắm
vững các bước của kỹ năng. Việc lĩnh hội này có thể do con người tự học
cũng có thể do người khác hướng dẫn. Nhưng chỉ là nắm lý thuyết chứ chưa
phải hành động thực sự, vì vậy có thể nói là chưa có kỹ năng. Nhưng nếu
không có bước này thì người học phải lần mò, khó hoàn thành công việc có
hiệu quả và mất nhiều thời gian.

22

pháp nhằm nâng cao, phát triển các kỹ năng đó.
Để phát triển kỹ năng tự học phù hợp với đặc trưng của môn lịch sử,
GV hướng dẫn HS tuân thủ các bước chung về hình thành kỹ năng như trên.
Đồng thời, cần phát triển cho HS những kỹ năng phù hợp với đặc trưng bộ
môn như: kỹ năng so sánh, đối chiếu các sự kiện lịch sử; kỹ năng hệ thống
hóa kiến thức; kỹ năng trình bày; kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn… Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn trong
trường phổ thông.
Sự phát triển của kỹ năng nói chung, kỹ năng tự học bộ môn lịch sử nói
riêng được hiểu theo hai khía cạnh một là, quá trình tăng dần về số lượng các
kỹ năng, trên cơ sở các kỹ năng đã có sẽ hình thành và phát triển thêm những
kỹ năng tự học mới; hai là, phát triển về mặt chất lượng kỹ năng, tức là trên
cơ sở các kỹ năng đã được hình thành (HS biết làm) sẽ phát triển lên mức độ
cao hơn (làm thành thạo). Để các kỹ năng trở nên thành thục đòi hỏi một quá
trình lao động lâu dài, kiên trì của HS và sự hướng dẫn, kiểm tra thường
xuyên của GV. Vì vậy, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ
hình thành và phát triển kỹ năng có vai trò đặc biệt quan trọng.
1.1.1.5.Tài liệu tham khảo
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, tài liệu là những sách báo giúp cho
việc tìm hiểu một vấn đề gì đó. Ví dụ : tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, tài
liệu giảng dạy… Như vậy có thể hiểu, TLTK trong dạy học lịch sử chính là
những sách, báo (ngoài SGK) hay các công trình nghiên cứu về những điều
đã xảy ra trong quá khứ của xã hội loài người.
Có nhiều loại tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông. Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến 2 loại tài liệu
tham khảo cơ bản : tài liệu lịch sử và tài liệu văn học.

24
* Tài liệu lịch sử
Tài liệu lịch sử có ý nghĩa quan trọng với việc nghiên cứu khoa học,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status