Nghiên cứu tính đa dạng thực vật đất ngập nước của sông Nhuệ - Đáy (phần chảy qua tỉnh Hà Nam) và khả năng sử dụng chúng để xử lý ô nhiễm môi trường - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
 NGUYỄN THỊ VIỆT NGA NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT
ĐẤT NGẬP NƢỚC CỦA SÔNG NHUỆ - ĐÁY
(PHẦN CHẢY QUA TỈNH HÀ NAM) VÀ KHẢ NĂNG
SỬ DỤNG CHÚNG ĐỂ XỬ LÝ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



1.1 Thực vật đất ngập nƣớc 3
1.1.1 Khái niệm thực vật đất ngập nước 3
1.1.2 Các dạng sống của thực vật đất ngập nước 3
1.1.3 Vai trò của thực vật thủy sinh trong xử lý nước thải ở các vùng đất
ngập nước 8
1.2 Khái quát tình hình nghiên cứu thực vật đất ngập nƣớc và việc sử
dụng chúng để xử lý ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở trên thế giới và Việt Nam .11
1.2.1 Trên thế giới 11
1.2.2. Đối với Việt Nam 15
1.3 Khái quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội vùng ven sông Nhuệ,
sông Đáy 16
1.3.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên 16
1.3.2 Tình hình phát triển kinh tế xã hội dải ven sông Nhuệ, sông Đáy 18
1.3.3 Chất lượng môi trường nước sông Nhuệ - Đáy (phần chảy qua tỉnh Hà Nam) 19
1.3.4. Nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường nước sông Nhuệ, sông Đáy 21
CHƢƠNG 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 24
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 24
2.2.1. Phương pháp kế thừa 24
2.2.2. Phương pháp phân tích thảm thực vật 24
2.2.3. Phương pháp phân tích đánh giá tính đa dạng hệ thực vật 25
2.2.4. Phương pháp xây dựng các mô hình sử dụng thực vật cho giảm thiểu ô
nhiễm môi trường nước 26
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 29
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
3.1. Hiện trạng các loài thực vật bậc cao có mạch trên toàn vùng nghiên cứu 29
3.1.1. Đa dạng các bậc taxon 29
3.1.2. Đa dạng về tài nguyên thực vật 30
3.2. Đánh giá tính đa dạng thực vật ở trong hệ sinh thái thủy vực sông

Bảng 3.3: Các loài thực vật có mạch phân bố trong hệ sinh thái chịu ngập
nước ngọt thường xuyên và tạm thời và đất ướt ven sông 32
Bảng 3.4: Các loài thực vật chịu ngập nước ngọt thường xuyên và tạm thời 39
Bảng 3.5: Giá trị sử dụng tài nguyên thực vật ở khu vực nghiên cứu 45
Bảng 3.6: Danh sách các loài thực vật đất ngập nước trong khu vực nghiên
cứu có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường nước 46

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Thực vật nổi 4
Hình 1.2: Thực vật ngập nước 6
Hình 1.3: Thực vật lá nổi có rễ 7
Hình 1.4: Thực vật trôi nổi tự do 8
Hình 1.5: Lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy 17
Hình 2.1: Sơ đồ các tuyến khảo sát 28
Hình 3.1: Quần xã Rong đuôi chó Hydrilla verticillata (L.f.) Royle (Tuyến 2) . 37
Hình 3.2: Quần xã rau muống – Ipomoea aquatic Forssk (Tuyến 1). 38
Hình 3.3: Quần xã bèo tây – Eichhornia crassipes (Mares) Solms (Tuyến 3) 38
Hình 3.4: Quần xã cây gỗ ngập nước ngọt (Tuyến 2) 40
Hình 3.5: Quần xã cây bụi ngập nước ngọt (Tuyến 1) 41
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
Hình 3.6: Quần xã cây bụi ngập nước ngọt (Tuyến 2) 42
Hình 3.7: Quần xã Sậy – Phragmites australis (Cav.) Trin (Tuyến 3) 43
Hình 3.8: Loài cây xâm lấn – Ma dương Mimosa pigra L (Tuyến 2). 44
Hình 3.9: Bèo tây – Eichhornia crassipes (Mares) Solms 47
Hình 3.10: Bèo Cái – Pistia stratiotes L. 48
Hình 3.11: Bèo Tấm – Lemna perpusilla Torr. 49
Hình 3.12: Rau muống – Ipomoea aquatic Forssk. 50
Hình 3.13: Rau dừa nước – Ludwigia adscendens (L.) Hara 51
Hình 3.14. Rau ngổ trâu – Enydra fluctuans Lour. 51

xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Đây còn là nguồn lợi dồi dào của cư dân
sống hai bên lưu vực sông thông qua việc đánh bắt hay nuôi trồng thủy sản. Ngoài
ra đây còn là hệ thống tiêu thoát nước cho thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, sự phát
triển kinh tế xã hội, tốc độ đô thị hóa, dân số tăng nhanh của tỉnh Hà Nam và các
khu vực lân cận đã gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái, khiến
nó không còn giữ nguyên được trạng thái cân bằng ban đầu. Các nguồn nước thải
ngoại tỉnh và nội tỉnh bao gồm nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp và
các làng nghề chưa được xử lý đúng theo tiêu chuẩn quy định mà thải bỏ trực tiếp
vào nguồn nước tiếp nhận là nguyên nhân làm cho môi trường nước sông Nhuệ,
sông Đáy ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là vào mùa nước kiệt. Hậu quả là
ảnh hưởng đến mức độ đa dạng sinh học của hệ sinh thái lưu vực sông, trong đó có
thực vật đất ngập nước.
Để phục vụ công tác quản lý và sử dụng bền vững hệ sinh thái thủy vực, đề
xuất giải pháp góp phần cải thiện chất lượng nguồn nước sông Nhuệ, sông Đáy,
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
2
chúng tôi thực hiện đề tài “ Nghiên cứu tính đa dạng thực vật đất ngập nước của
sông Nhuệ - Đáy (phần chảy qua tỉnh Hà Nam) và khả năng sử dụng chúng để
xử lý ô nhiễm môi trường” với các mục tiêu:
- Đánh giá hiện trạng đa dạng sinh học của thực vật đất ngập nước lưu vực
sông Nhuệ, sông Đáy (phần chảy qua tỉnh Hà Nam) và giá trị sử dụng của chúng.
- Tìm hiểu khả năng sử dụng một số loài thực vật đất ngập nước trong việc
xử lý ô nhiễm môi trường nước.
- Định hướng một số mô hình hợp lý cho việc xử lý ô nhiễm môi trường
nước sông Nhuệ, sông Đáy.


lầy, phát triển trong một phạm vi mực nước từ 0,5m dưới mặt đất đến độ sâu 1,5m
hoặc sâu hơn nữa (Hình 1.1). Nói chung, chúng có thân và lá cây tiếp xúc với không
khí và hệ thống rễ lớn. Thân và lá của thực vật nổi có nhiều điểm tương đồng với
các loại thực vật trên mặt đất về hình thái học và sinh lý. Các cây một lá mầm,
chẳng hạn như các loài Sậy, Cỏ nến hình thành các lá thẳng đứng từ hệ thống thân
rễ và rễ. Thành cellulose của tế bào dày, tạo độ cứng cần thiết.
Hệ thống rễ và thân rễ của các loại cây này tồn tại vĩnh viễn trong trầm tích
kỵ khí và phải lấy ôxy từ các cơ quan trên không để phát triển. Tương tự, những tán
lá non dưới nước phải có khả năng hô hấp kị khí trong thời gian ngắn cho đến khi
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
4
sống được trên mặt nước. Khi lá đã nổi lên môi trường không khí, các kênh khí
trong tế bào và lỗ hổng tăng về kích thước, do đó tạo điều kiện trao đổi khí giữa các
mô rễ và khí quyển (Wetzel, 2001) [55]. Các loại cây này thích nghi để phát triển
trong đất ngập nước nhờ các khoảng trống lớn để vận chuyển ôxy cho rễ và thân rễ.
Một phần của oxy có thể rò rỉ vào vùng rễ xung quanh, tạo điều kiện oxy hóa trong
môi trường thiếu ôxy khác và kích thích phân hủy các chất hữu cơ và vi khuẩn nitrat
phát triển (Brix và Schierup, 1989) [33].

Hình 1.1: Thực vật nổi [54]
Thực vật nổi đồng hóa các chất dinh dưỡng từ trầm tích và hoạt động như
máy bơm chất dinh dưỡng và đóng một vai trò quan trọng trong thay đổi N, P, và K
theo mùa (Atwell và cộng sự, 1980; Agami và Waisel, 1986) [32, 30]. Quá trình này
xảy ra giống các thực vật trên cạn, nhiều chất dinh dưỡng (thường là > 90%) được
sử dụng, tái sử dụng trong quá trình tăng trưởng, và được lưu giữ trong các mô trên
mặt đất của thực vật đất ngập nước được di chuyển trở lại và được lưu trữ trong các
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
5

a. Có rễ:
Thực vật lá nổi có rễ bám dưới đáy chủ yếu là cây hạt kín gắn liền với các
trầm tích ở độ sâu khoảng 0,5 – 3,0m (Hình 1.3). Trong các loài thực vật có lá dị
hình, lá chìm trong nước ở phía trước hoặc đi kèm với lá nổi. Cơ quan sinh sản nổi
trên mặt nước và lá nổi dài, cuống lá linh hoạt, hoặc trên cuống lá ngắn và độ dài
tăng dần tính từ thân cây (Wetzel, 2001) [55].
Mặt nước là môi trường sống giảm thiểu tác động cơ học của gió và nước.
Thực vật lá nổi có xu hướng lá hình mũi mác, dai, hình tròn với cạnh liền để thích
nghi với những áp lực trong tự nhiên. Các lá thường có bề mặt không thấm nước và
cuống lá dài mềm dẻo [8, 16].
Ví dụ về thực vật lá nổi có rễ bao gồm: Nymphaea stellata Willd. (Súng),
Nymphaea tetragona Georgi (Súng bốn góc), Victoria regia (Nong tằm), Nuphar
lutea (súng vàng), Nelumbo nucifera (Hoa sen Ấn Độ), Nelumbo nucifera Gaertn.
(Loài sen ở Việt Nam)…
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
7

Hình 1.3: Thực vật lá nổi có rễ [54]
b. Thực vật trôi nổi tự do
Các thực vật trôi nổi tự do (Hình 1.4), đa dạng về hình thức và đặc tính. Ví
dụ, Eichhornia crassipes (lục bình nước) hoặc Pistia stratiotes (rau diếp nước), thực
vật nổi trên bề mặt có ít hoặc không có rễ như Lemnaceae (họ bèo tấm) gồm các
loài Lemna minor , L. gibba, L. trisulca Nhiều loại thực vật, đáng chú ý Lemna,
Pistia, Salvinia hoặc Eichhornia phát triển tốt trên các thuỷ vực. Eichhornia
crassipes (lục bình nước) là một trong những cây phát triển nhanh nhất trên thế
giới. Thông thường, thực vật trôi nổi tự do bị giới hạn phát triển để hệ sinh thái thuỷ
vực và các vùng nước chảy chậm được bảo vệ. Chúng lấy chất dinh dưỡng hoàn
toàn từ nước, và hầu hết các loài thực vật lớn được tìm thấy trong nước giàu muối
hòa tan (Wetzel, 2001) [55]. Một số loài thực vật hạt kín trôi nổi, chẳng hạn như

Rễ và thân rễ trong trầm
tích
Ổn định bề mặt trầm tích → giảm xói mòn
Ngăn chặn tắc nghẽn trong hệ thống chảy thẳng đứng
Tạo oxy→ tăng phân hủy và nitrat hóa
Hấp thu chất ô nhiễm
Tiết kháng sinh

Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
9
Thực vật thủy sinh có khả năng vận chuyển oxy từ không khí vào trong nước
nhờ bộ rễ, cho phép hình thành nhóm sinh vật hiếu khí quanh bộ rễ thực vật. Các vi
sinh vật hiếu khí thích hợp cho việc phân giải sinh học các hợp chất hữu cơ phức
tạp thành các chất đơn giản. Sản phẩm của quá trình phân giải này sẽ được thực vật
sử dụng cho quá trình sinh trưởng, phát triển. Khả năng loại bỏ các chất ô nhiễm vô
cơ và hữu cơ trong nước đã được chứng minh là có sự cộng sinh giữa thực vật thủy
sinh và các dạng vi sinh vật sống trong và xung quanh rễ của chúng. Thực vật và
các vi sinh vật có thể đạt được hiệu quả xử lý cao khi chúng phối hợp với nhau
trong một hệ sinh thái cân bằng. Thân và lá của thực vật nửa ngập nước và rễ của
thực vật nổi làm giảm tốc độ dòng chảy, gây ra sự thay đổi của quá trình lọc và lắng
của các hạt (cặn, vụn hữu cơ) và là nơi sống bám của nhiều loài tảo và vi sinh vật.
Vi sinh vật có khả năng phân hủy, bẻ gãy các đại phân tử hữu cơ thành các hợp chất
đơn giản hơn, đồng thời sử dụng các chất có trong nước thải làm nguồn dinh dưỡng
như cacbon, nito, photpho, kali để xây dựng tế bào đồng thời làm sạch nước thải
[10, 13, 26]. Oxy chuyển từ phần thân và lá khí sinh xuống bộ rễ và giải phóng ra
vùng rễ, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nitrat và phản nitrat hóa. Bởi vậy, thực
vật thủy sinh đóng vai trò chủ yếu trong việc giảm nồng độ NH
4
+

sự loại bỏ Nitơ liên kết. Nước thải đi vào hệ thống thường có lượng oxy hòa tan
thấp hoặc đôi khi bằng không. Do đó, Nitơ trong nước thải chủ yếu tồn tại ở dạng
Nitơ hữu cơ hoặc NH
3
. Sự chuyển hóa từ NH
3
thành NO
3
-
không thể xảy ra trừ khi
nước thải được sục khí, khi đó các vi khuẩn hiếu khí sẽ thực hiện sự chuyển hóa
này. Lượng oxy khuếch tán từ rễ thực vật sẽ tạo ra một vùng hiếu khí, tạo điều kiện
cho sự sinh trưởng của các vi sinh vật hiếu khí, chúng sẽ thực hiện quá trình chuyển
hóa NH
3
thành NO
3
-
. Còn trong vùng kị khí, một số loài sinh vật phản nitrat hóa sử
dụng NO
3
-
như nguồn oxy cho quá trình hô hấp, nó sẽ chuyển NO
3
-
thành N
2
, chất
này sẽ chuyển từ đất hoặc trầm tích vào trong nước và sau đó vào không khí [10].
Các loại thực vật bậc cao đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định chất

Nuphar lutea. Seidel (1976) [49] cho thấy Scirpus lacustris (cỏ nến) tiết kháng sinh
từ gốc rễ của nó và vi khuẩn (dạng vi khuẩn Coli, Salmonella và Enterococci) biến
mất khỏi nước bị ô nhiễm bằng cách đi qua một thảm cây cỏ nến. Vincent và cộng
sự (1994) [53] cho thấy các đặc tính kháng khuẩn của dịch tiết của cây bạc hà,
Phragmites australis và Scirpus lacustris. Một số thực vật cũng có cơ chế thích
nghi và tránh ngộ độc kim loại nặng bằng cách hấp thu, tích lũy và kết tủa các chất
ô nhiễm trong môi trường nước có nồng độ thấp vào trong rễ của thực vật. Quá trình
lọc bằng rễ có thể xử lý một phần các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, hoặc
nước thải của các vùng khai thác mỏ có thành phần kim loại nặng như: Pb, Cd, Cu,
Ni, Zn, Cr…
1.2 Khái quát tình hình nghiên cứu thực vật đất ngập nƣớc và việc sử dụng
chúng để xử lý ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ở trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Trên thế giới
Trước những năm 1950, hệ sinh thái đất ngập nước chưa được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm đến bởi đây không hoàn toàn là hệ sinh thái trên cạn cũng
không hoàn toàn là hệ sinh thái dưới nước. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1950, đã có
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
12
một sự thay đổi căn bản về sự quan tâm đối với vùng đất ngập nước. Có nhiều lĩnh
vực được nghiên cứu trong đó việc xác định thành phần loài, công dụng của thực
vật đất ngập nước ngày càng đầy đủ hơn. Việc trồng các loại cây lương thực (lúa
nước); thực vật dùng cho chăn nuôi, thức ăn gia súc; làm nguồn phân bón… là các
công dụng phổ biến nhất của thực vật ngập nước. Năm 1952, những nghiên cứu thử
nghiệm đầu tiên về khả năng xử lý nước thải của các loài thực vật đất ngập nước
được thực hiện bởi Kathe Seidel ở Đức [49]. Loại thực vật được bà sử dụng nhiều là
cây cỏ Nến (Scirpus lacustris). Với việc tiến hành nhiều thử nghiệm trồng các loại
thực vật đầm lầy và thực vật thủy sinh trong nước thải và bùn có nguồn gốc khác
nhau, Seidel đã nổ lực cải thiện hiệu suất xử lý nước thải nông thôn từ các bể tự
hoại và ao hồ. Seidel trồng các loài thực vật thủy sinh vào các mương, kè và tạo các

nước nhân tạo dòng chảy ngầm (35%) và hệ thống đất ngập nước nhân tạo kết hợp
dòng chảy bề mặt và dòng chảy ngầm (14%). Hiện nay, tại New Zealand, hệ thống đất
ngập nước nhân tạo được sử dụng rất phổ biến để xử lý nước thải nông nghiệp.
Từ giữa thập niên 1980, khái niệm sử dụng đất ngập nước nhân tạo trong xử
lý nước thải đã trở nên phổ biến Nam Phi. Các hệ thống đất ngập nước nhân tạo
được xây dựng tại đây là các hệ thống đất ngập nước dòng chảy bề mặt và dòng
chảy thẳng đứng. Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu điển hình về khả năng xử lý
nước thải đô thị, nước thải công nghiệp và nước thải mỏ của đất ngập nước đạt hiệu
quả cao [54].
Trong những năm 1970 và 1980, hàng loạt các thí nghiệm về cây lục bình để
xử lý các loại nước thải như nước thải nhà máy sữa, nước thải nhà máy sản xuất dầu
cọ, nước thải nhà máy sản xuất cao su, nước thải ngành thuộc da, nước thải ngành
dệt may, nước thải mạ điện, nước thải sản xuất giấy và bột giấy, nước thải nhà máy
sản xuất thuốc trừ sâu đã được tiến hành khắp châu Á [54]. Tuy nhiên, thông tin
đầu tiên về việc sử dụng đất ngập nước nhân tạo bằng hệ thực vật nổi xuất hiện vào
đầu những năm 1990 (Juwarkar cộng sự, 1992) [42]. Hiện nay, hệ thống đất ngập
nước nhân tạo đã được áp dụng rộng rãi để xử lý các loại nước thải ở Ấn Độ, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Nepal, Malaysia, Thái Lan…
Như vậy, công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm môi trường nước ngày càng được
chú trọng, phát triển ở quy mô lớn và được áp dụng ở rất nhiều quốc gia. Đây là
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
14
hướng nghiên cứu đang được tiếp tục phát triển mạnh ở các nước châu Âu, châu
Mỹ, các nước châu Á (đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan) và một số nước khác.
Trong những năm qua, số loài thực vật có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường nước
được phát hiện ngày một nhiều. Các nghiên cứu được thực hiện một cách toàn diện
từ lý thuyết đến thực tiễn.
Bảng 1.2 : Một số loài thực vật đất ngập nƣớc đƣợc sử dụng phổ biến trong các
hệ thống xử lý nƣớc thải trên thế giới (Nguồn [54])

10.
Vallisneria americana
Cần Tây dại
11.
Typha spp.
Cỏ nến
12.
Phragmites australis (Cav.) Trin.
Sậy
13.
Cyperus papyrus
Cây cói giấy
14.
Alternanthera philoxeroides
Cây cá sấu
15.
Phalaris arundinacea L.
Cỏ hoàng yến
16.
Glyceria maxima (Hartm.) Holmb.
Cỏ ngọt cỡ lớn
17.
Cyperus papyrus
Cây cói
18.
Thysanolaena maxima
Cỏ sú
19.
Canna sp.
Cây chuối hoa

30.
Scirpus lacustris
Cỏ nến
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
15
1.2.2. Đối với Việt Nam
Các loài thực vật sống ở các khu vực ẩm ướt, sông suối, ngập nước, trong
rừng ngập mặn đã được định dạng và liệt kê trong danh lục các loài thực vật ở Việt
Nam [2, 4, 5, 6, 8, 16, 17, 47]. Tuy nhiên, việc tìm hiểu và nghiên cứu vai trò của
chúng trong môi trường nước cũng như khả năng sử dụng trong xử lý ô nhiễm môi
trường nước còn đang hạn chế. Đã có một số kết quả của các nhà khoa học được
công bố trong thời gian qua: Nguyễn Nghĩa Thìn (2006) [25] đã giới thiệu một danh
sách gồm 34 loài thực vật dự kiến để làm sạch môi trường nước; Trần Văn Tựa và
cs (2007) [28] đã tiến hành điều tra về các loài thực vật thủy sinh phổ biến ở Việt
Nam và đưa ra danh sách gồm 32 loài có ý nghĩa trong làm sạch môi trường.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu sử dụng thực vật thủy sinh xử lý ô
nhiễm nước bước đầu đã mang lại các kết quả khả quan và có thể ứng dụng rỗng rãi:
- Nguyễn Việt Anh và cộng sự (2006) [1] đã lắp đặt và vận hành mô hình bãi
lọc ngầm trồng cây dòng chảy thẳng đứng để xử lý nước thải từ bể tự hoại. Các cây
thử nghiệm là cỏ Nến (Typha orientalis), Sậy (Phragmites communis), Thủy trúc
(Cyberus involucratus), Phát lộc (Dracaena fragrans). Hệ thống hoạt động ổn định,
cho kết quả tốt. Công nghệ này tỏ ra phù hợp với quy mô hộ hay nhóm hộ gia đình,
các điểm du lịch, dịch vụ, trang trại… ở nước ta.
- Trần Văn Tựa và cộng sự (2007) [29] đã sử dụng hệ thống thực vật nổi (bèo
Tây và bèo Cái) để xử lý nước thải chế biến thủy sản ở quy mô pilôt. Mô hình bước
đầu đã thu được kết quả khả quan. Tuy nhiên, cần các thử nghiệm tiếp theo ở quy
mô lớn hơn để có thể ứng dụng trong thực tiễn.
- Trần Văn Tựa và cộng sự (2007) [29] đã nghiên cứu mô hình xử lý nước
thải chứa Cr và Ni quy mô pilôt sử dụng thực vật thủy sinh (Cỏ Vetiver và Sậy). Số

Sông Nhuệ khi đi vào tỉnh Hà Nam đảm bảo tưới tiêu cho các xã của huyện
Duy Tiên như Duy Hải, Duy Minh, Hoàng Đông, Tiên Tân, Lam Hạ và các xã của
huyện Kim Bảng gồm Nhật Tựu, Hoàng Tây, Văn Xá, Kim Bình và thị trấn Quế.
1.3.1.2 Sông Đáy
Sông Đáy có chiều dài khoảng 240km, bắt nguồn từ sông Hồng tại thôn Vân
Cốc tỉnh Hà Tây, gặp sông Bùi ở đoạn Mỹ Đức – Chương Mỹ, rồi tiếp tục chảy
xuống phía Nam (chùa Hương) đến Hữu Vinh – Hồng Quang của tỉnh Hà Tây (cũ).
Sông Đáy chảy vào địa phận tỉnh Hà Nam từ xã Tượng Lĩnh và chảy tiếp qua các xã
Khả Phong, Thụy Lôi, thị trấn Kim Bảng, Thi Sơn, Kim Bình, Phù Vân, thành phố
Phủ Lý, Thanh Sơn, Châu Sơn và đi qua các xã của huyện Thanh Liêm như xã
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
17
Thanh Châu, thị trấn Kiện Khê, Thanh Tuyền, Thanh Thủy, Thanh Tân, Thanh
Nghị, Thanh Nguyên, Thanh Hải và đổ vào địa phận tỉnh Ninh Bình và Nam Định.
Chiều dài của sông Đáy chảy qua tỉnh Hà Nam khoảng 47km, lưu lượng của
sông bất thường nên mùa mưa thì lũ quét, dễ tạo ra những ghềnh nước lớn, mùa khô
thì lòng sông cạn nên thượng lưu sông Đáy thuyền bè đôi khi không qua được [15].
Mùa lũ trên sông Đáy từ tháng VI đến tháng X. Lượng dòng chảy mùa lũ khoảng
75% – 90% tổng lượng nước [21, 22]. Dòng chảy ba tháng nhỏ nhất thường xuất
hiện vào tháng I, II, III. Lưu lượng nước các tháng của sông Đáy tại trạm Ba Thá
dao động trong khoảng từ 10m
3
/s đến 170m
3
/s [15].
Đến tỉnh Hà Nam khi sông chảy vào thành phố Phủ Lý được dòng sông
Nhuệ góp nước từ phía tả ngạn. Sông Đáy tiếp tục hành trình về ngã ba Gián Khẩu
rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở Cửa Đáy huyện Kim Sơn [15].
Sông Đáy đóng vai trò quan trọng trong việc phân lũ cho sông Hồng và tưới

1.3.2.2 Sông Đáy
- Đoạn sông từ xã Tượng Lĩnh đến Phủ Lý: Phía Tây từ xã Khả Phong đến
xã Thanh Sơn, nguồn nước sông Đáy chịu tác động của khu vực khai thác đá xã
Tượng Lĩnh, mỏ sét Khả Phong, chất thải khu dân cư thị trấn Quế, nhà máy gạch
Kim Bảng, bến xuất nhập vật liệu của nhà máy, công ty xi măng 77 và bến xuất
nhập nguyên nhiên liệu, xí nghiệp bột đá, nhà máy nước, các nhà hàng, khách sạn,
các công sở là cơ quan tỉnh
- Đoạn sông từ Phủ Lý tới cầu Gián Khẩu: Tại đây đã hình thành cụm công
nghiệp gồm xí nghiệp tái chế giấy, công ty dệt Hà Nam, kho xăng dầu, trạm trộn bê
tông, cảng khu vực cầu Đọ. Phía Đông là vùng đồng bằng, không có nhà máy, xí
nghiệp. Phía Tây có khu công nghiệp sản xuất đá và vôi Kiện Khê gồm hàng chục
xí nghiệp sản xuất, hàng chục lò vôi liên hoàn của hợp tác xã và tư nhân. Tại khu
vực Kiện Khê, có cảng Bút Sơn là cảng chính xuất nhập nguyên liệu, chuyên chở
clinker và xi măng của công ty xi măng Bút Sơn. Từ Thanh Thủy đến Thanh Nghị
là khu vực khai thác đá của một số công ty và các cơ sở tư nhân. Hàng chục máng
rót đá xuống tàu, thuyền, xà lan ngay cạnh mép sông. Trên sông, hàng ngày có hàng
trăm thuyền, xà lan nhận đá chuyên chở đi khắp các nơi.
Nhận xét chung: Hiện nay, dọc lưu vực sông Đáy, sông Nhuệ, tình hình phát
triển kinh tế xã hội đang diễn ra nhanh và mạnh. Tuy nhiên, các nguồn thải phát
sinh từ quá trình này chưa được xử lý đúng yêu cầu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường nước lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy.
Luận văn thạc sĩ khoa học
Nguyễn Thị Việt Nga K18 – Cao học Môi trường
19
1.3.3 Chất lượng môi trường nước sông Nhuệ - Đáy (phần chảy qua tỉnh Hà Nam)
Chất lượng môi trường nước sông Nhuệ - Đáy tuân theo chỉ số chất lượng
nước (WQI) của “Quyết định số 879/QĐ-TCMT ngày 1 tháng 7 năm 2011 - Tổng
cục Môi trường về việc ban hành sổ tay hướng dẫn tính toán chỉ số chất lượng
nước” [23].
1.3.3.1 Chất lượng nước sông Nhuệ

60
70
80
WQI
Cống Thần Cống Nhật
Tựu
Đò Kiều Cầu Hồng
Phú
Tháng 7/2010
Tháng 7/2011
Tháng 7/2012

Biểu đồ 1.1: Giá trị WQI trên sông Nhuệ
Nguồn: Tổng cục Môi trường, 2012 [24]

Trích đoạn Nguyên nhân của tình trạn gô nhiễm môi trường nước sông Nhuệ, sông Đáy Phương pháp phân tích thảm thực vật Định hướng một số mô hình hợp lý sử dụng thực vật đất ngập nước để
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status