Định canh định cư và biến đổi kinh tế xã hội của người Khơ Mú ở xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An - Pdf 25


Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, 2005

2

Mục lục
Trang
Chương 1: Định canh định cư và biến đổi văn hoá tộc người… …… 1
1.1.Vấn đề nghiên cứu 1
1.2. Chính sách ĐCĐC của Đảng và Nhà nước ta 3
1.3 Can thiệp, thích ứng và biến đổi văn hoá 15
1.4. Lịch sử nghiên cứu nghiên cứu vấn đề 23
1.5. Mục đích và nội dung nghiên cứu 30
1.6. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 31
Chương 2: Khái quát về địa bàn nghiên cứu: xã Tà Cạ, huyện Kỳ Sơn,
tỉnh Nghệ An 35
2.1. Điều kiện tự nhiên 35
2.2. Điều kiện kinh tế – xã hội 38
2.3. Vài nét về bản Na Nhu và bản Bình Sơn 1 48
2.4. Giới thiệu về người Khơ mú ở Nghệ An 51
Tiểu kết 57
Chương 3: Định canh định cư và những biến đổi trong
hoạt động kinh tế 59
3.1. Người Khơ mú và hệ thống kinh tế nương rẫy cổ truyền 59
3.2. Tập thể hoá nông nghiệp và Hợp tác xã 64

Phụ lục 189

4 Bảng ký hiệu viết tắt

- CTQG Chính trị Quốc gia
- DFID Department for International Development
Uỷ ban Phát triển Quốc tế
- ĐCĐC Định canh định cư
- ĐCĐC & KTM Định canh định cư & Kinh tế mới
- HĐND Hội đồng nhân dân
- HTX Hợp tác xã
- KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình
- KT-XH Kinh tế – xã hội
- Lao PDR Lao Peple Democartic Republic
Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

một trong những tộc người điển hình của phương thức canh tác du canh. Tộc
người này vẫn được xem là một trong nhóm dân tộc có trình độ phát triển lạc hậu
hơn các dân tộc anh em khác. Trong lịch sử, họ thường chịu sự phân biệt và lệ
thuộc và các chúa đất người Thái trong vùng với thân phận “cuông nhôốc”. Cho
nên, dấu ấn ảnh hưởng của văn hoá Thái đối với người Khơ mú khá đậm nét. Địa
bàn cư trú của người Khơ mú thường ở lưng chừng núi thuộc vùng cao, vùng sâu.
Vì vậy, tâm lý mặc cảm và tự ti dân tộc vẫn đang là một rào cản để phát triển kinh
tế xã hội. Chắc chắn đây là một vấn đề khó khăn để hội nhập vào sự phát triển
chung của đất nước.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, do chủ trương chính sách định
canh định cư (ĐCĐC) của Đảng và Nhà nước, người Khơ mú đã dần đi vào ổn
định cuộc sống. Về cơ bản, đồng bào đã không còn du canh du cư như trước đây.
ĐCĐC làm cho cuộc sống của người Khơ mú nói riêng và các nhóm thiểu số du
canh nói chung có những chuyển biến lớn về kinh tế xã hội. Chính cuộc vận động
và thực hiện ĐCĐC với các chương trình dự án phát triển của Nhà nước đã và
đang làm cho đời sống của đồng bào có những biến đổi trên mọi lĩnh vực.
Hiện nay, đời sống của người Khơ mú và những dân tộc thiểu số vẫn đang
là đối tượng của chính sách ĐCĐC. Các chương trình và dự án phát triển kinh tế 6

xã hội miền núi trong vài thập kỷ qua và quá trình tiếp xúc tộc người đang đặt ra
những thách thức đối với bản sắc văn hoá của họ.
Có thể nói, ĐCĐC như là một chính sách can thiệp của Nhà nước vào quá
trình phát triển của tộc người. Trước hết, chương trình ĐCĐC nhằm tái cơ cấu
phân bố, sắp xếp dân cư, xây dựng các làng định cư tập trung với qui mô dân số ổn
định. Trên cơ sở các làng định cư, việc khai phá ruộng nước và mở mang hệ thống
thuỷ lợi, cung cấp nước tưới ruộng được xem là một chiến lược nhằm làm thay đổi
tập quán canh tác cổ truyền theo phương thức phát đốt trên đất dốc của người Khơ

2. Chính sách ĐCĐC của Đảng và Nhà nước ta
ĐCĐC là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm phát
triển kinh tế xã hội ở miền núi nước ta. Nghị quyết số 38/CP ngày 12/8/1968 nhấn
mạnh: “Để xây dựng và phát triển kinh tế miền núi, một trong những công tác rất
cấp bách phải thi hành là chấm dứt tình trạng du canh du cư, từng bước cải thiện
đời sống của đồng bào hiện còn du canh du cư, pháp huy ba ưu thế lớn của miền
núi là công công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng, thực hiện sự phân công lao động
mới, góp phần tăng cường sức mạnh kinh tế của miền núi, làm cho miền núi tiến
kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số” (Hội đồng Dân tộc
Quốc hội, 2000: 340).
Sau cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác
ĐCĐC và xem đó là một nội dung quan trọng không chỉ để thực hiện chính sách
dân tộc mà còn là chiến lược phát triển kinh tế xã hội miền núi nước ta. Nghị
quyết 71/TW ngày 22/2/1963 về vấn đề phát triển nông nghiệp miền núi đã nêu ra
phương hướng thực hiện ĐCĐC. Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ ngày
12/3/1968 đã chỉ rõ rầm quan trọng và đề ra mục đích, yêu cầu, nội dung của công
tác ĐCĐC. Nghị quyết này nhấn mạnh rằng ĐCĐC “là một cuộc vận động cách
mạng sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” (Hội đồng Dân tộc Quốc hội,
2000: 348).
2.1 Khái niệm về du canh du cư và ĐCĐC 8

Du canh là một khái niệm chỉ việc trồng trọt không cố định tại một nơi, chỉ
trồng trên khoảng đất này một thời gian rồi chuyển đi khai phá trồng trọt tại
khoảng đất khác
1
.
Du cư chỉ sự di chuyển nơi cư trú của cư dân, sống không ổn định tại một

9

Định canh định cư là phương thức cố định địa bàn sản xuất và cư trú của cư
dân nông nghiệp. Định canh làm cho sản xuất ổn định và phát triển. Định cư tạo
điều kiện cho tổ chức lối sống tiến bộ, năng suất cây trồng tăng(Từ điển Bách
khoa Việt Nam tập 1, 1995: 871).
Việt Nam đã có cuộc vận động ĐCĐC từ bốn thập kỷ nay. Khi nói đến
chính sách ĐCĐC, thuật ngữ định canh được sử dụng để phản ánh một quá trình
can thiệp bằng vận động hoặc bắt buộc những người sinh sống ổn định ở một nơi
cố định nhưng vẫn du canh phải ổn định việc canh tác. Còn định cư để chỉ một
cuộc sống ổn định tại một địa điểm cố định. ĐCĐC là một quá trình can thiệp để
ngăn chặn người dân chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy và tạo cho người dân
canh tác và sinh sống ổn định tại một nơi cố định mà không phải đi chặt phá và đốt
rừng làm nương rẫy ở những nơi khác. Công tác ĐCĐC là tổng thể các hoạt động
nhằm tạo ra các điều kiện để người dân sinh sống và sản xuất nông nghiệp ổn định
mà không phải di chuyển địa điểm cư trú và canh tác. Sự cố định về địa điểm sản
xuất nông nghiệp và khu dân cư là sản phẩm của quá trình ĐCĐC. Trong đề tài
này, ĐCĐC được hiểu với ý nghĩa như vậy.
Định cư du canh là thuật ngữ được dùng gần đây với ý nghĩa để chỉ người
dân cư trú ổn định tại một địa điểm nhưng canh tác không ổn định mà du canh đốt
rừng làm rẫy trên những mảnh đất khác nhau.
Nghề trồng trọt ra đời trên cơ sở canh tác các mảnh đất khô, trong đó hình
thức canh tác bằng phương pháp chặt cây, đốt rừng xuất hiện đầu tiên. ở Việt
Nam, người ta gọi hình thức này là canh tác nương rẫy. Hình thái trồng trọt nương
rẫy có hai đặc trưng là: chặt cây, đốt rừng (slash and burn) và du canh (shifting
cultivation). ở các dân tộc có những tên gọi khác nhau để chỉ nương rẫy: người
Thái gọi là hạy, người Khơ mú gọi là hrế vv… Người Hán trước đây khi tiếp xúc
với các cư dân làm nương rẫy đã gọi lối canh tác này là “Đao canh hoả chủng”
(Đặng Nghiêm Vạn, 1975: 7 - 21).
Canh tác nương rẫy có các giai đoạn phát triển khác nhau, những dạng thức

sống định cư .
Cư dân nhóm Môn - Khơ me (Khơ mú, Xinh mun, Kháng, La ha…) canh
tác nương rẫy theo phương pháp phát đốt. Nhưng đồng bào tìm cách hạn chế tối đa
tác động đến lớp đất bề mặt của rẫy dốc (thường từ trên 40 độ trở lên) bằng cách 11

sử dụng các công cụ đơn giản nhất (dùng gậy chọc lỗ để tra hạt) và biện pháp xen
canh gối vụ, đa canh các loại cây trồng trên cùng một diện tích nhằm giảm thiểu
rửa trôi và xói mòn đất, cũng như bỏ hoá trước khi rẫy cạn kiệt hoàn toàn để đất
rừng có thể phục hồi và tái sinh trở lại. Sau một thời gian nhất định, đồng bào tiến
hành một chu kỳ canh tác mới. Đặc biệt, bà con có tập quán không phát đốt rừng
đầu nguồn để bảo vệ môi trường sinh thái. Họ thường chuyển nhà theo rẫy để tiện
làm ăn và sinh hoạt. Từ đó tạo ra tập quán du canh du cư. Hình thức canh tác của
họ là du canh khép kín hay luân canh khép kín (Nguyễn Ngọc Thanh, Vương
Xuân Tình 1995: 123).
Cư dân Hmông – Dao tiến hành du canh mở. Họ sử dụng cày bừa, cuốc
trong canh tác nương rẫy kết hợp với phát đốt. Nhóm cư dân này ưa thích làm rẫy
ở rừng nguyên sinh, rừng già. Họ thường canh tác liên tục trên một đám rẫy trong
hàng chục năm cho đến khi đất kiệt màu, trơ sỏi đá mới bỏ hoá, rừng rất khó phục
hồi, núi rừng trở thành đất trống đồi núi trọc. Sau đó, họ di chuyển đến vùng đất
mới để canh tác mà không quay trở lại vùng đất cũ. Người Hmông có tốc độ du
canh du cư chậm, số lần chuyển cư thưa và di cư theo đường thẳng. Lối canh tác
nương rẫy của họ tàn phá môi trường nhanh và triệt để hơn (Nguyễn Anh Ngọc,
1989 : 24).
Cư dân Tạng-Miến (Hà Nhì, Cống, La Hủ, Lô Lô…) canh tác thiên về khai
thác ruộng bậc thang và ruộng chờ mưa làm một vụ kết hợp phát đốt làm rẫy. Bản
làng của họ thường dịnh cư ổn định hơn hai nhóm trên.
Trong các nhóm cư dân làm rẫy, phương thức canh tác cổ truyền của nhóm

những kiến thức và kinh nghiệm mà người dân tích luỹ đến hôm nay đều tập trung
khai thác vùng đất dốc và rừng có hiệu quả nhằm phục vụ cho sinh kế của họ.
Trước ĐCĐC, hình thức du canh luân khoảnh quay vòng khép kín của họ đã đi
đến chỗ khủng hoảng kèm theo những hậu quả xấu về xã hội và môi trường.
Trước thực trạng du canh du cư ngày nay khi mà dân số tăng nhanh ở miền
núi, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng, đời
sống xã hội vùng cao đói nghèo và lạc hậu đã làm cho các nhà lãnh đạo và những
người làm chính sách thấy rằng cần phải có biện pháp can thiệp mạnh mẽ để chặn
đứng hoàn toàn tình trạng du canh ở miền núi, giải quyết xói mòn đất và sự suy
thoái rừng. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương chính sách ĐCĐC và đẩy
mạnh thực hiện nhằm ổn định đồng bào du canh tạo tập cuộc sống ĐCĐC. Tuy
nhiên, có nhiều cách du canh du cư khác nhau nên chính sách phải có sự vận dụng
cho phù hợp.
2.2. Tính duy lý của chính sách ĐCĐC 13

Các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đều
khẳng định sự cần thiết phải tiến hành ĐCĐC. Đối tượng của ĐCĐC là các tộc
người thiểu số du canh du cư và định cư du canh. Nghị quyết số 38/CP của Chính
phủ khẳng định, du canh du cư là một phương thức sản xuất và sinh hoạt lạc hậu,
lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên đời sống của người dân rất khó khăn. Du
canh để lại hậu quả xấu về kinh tế xã hội và môi trường. Vì vậy, cần phải chấm
dứt và xoá bỏ du canh du cư tiến hành ĐCĐC. Đó là nỗ lực chống lại đói nghèo và
nâng cao mức sống của người dân nhằm phát triển kinh tế xã hội ở miền núi.
Canh tác nương rẫy du canh gắn liền với nó là du cư không những làm cho
tổ chức xã hội phân tán, nhỏ hẹp, không ổn định mà đời sống cư dân luôn nghèo
khổ lạc hậu. Canh tác du canh có năng xuất và sản lượng thu hoạch rất thấp và bấp
bênh. Con người luôn phải lo thiếu ăn vì lương thực trồng trọt trên rẫy chỉ đảm

hội bên ngoài gia tăng. Xã hội của cư dân du canh càng bị khép kín và nghèo
thông tin. Nguồn thông tin chủ yếu là truyền miệng. Người dân thường sinh sống
bó hẹp trong cộng đồng bản làng nhỏ bé của mình. Quan hệ với xã hội bên ngoài
rất hạn chế. Vì vậy, họ hầu như không quan tâm đến những biến động của quốc
gia-dân tộc. ý thức quốc gia dân tộc rất yếu ớt, ý thức tộc người không sâu sắc.
Mặt khác, sự cư trú phân tán xé lẻ và biệt lập cùng với cuộc sống nghèo đói, trì trệ
đã không tạo điều kiện để phát triển đời sống xã hội của người dân vì nguồn lực
phát triển yếu. Xã hội của cư dân du canh thường mong manh, dễ vỡ trước những
tác động của tự nhiên và xã hội. Chính vì vậy, việc đưa người dân đi vào ổn định
cuộc sống ĐCĐC không những để Nhà nước quản lý xã hội tốt hơn mà còn tạo
điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế xã hội của đồng bào, cải thiện và nâng cao
mức sống của nhân dân, phát triển y tế, văn hoá, giáo dục. Nhà nước có điều kiện
quan tâm phát triển đời sống mọi mặt của nhân dân, đưa người dân hoà nhập với
sự phát triển chung của đất nước.
Mặt khác, miền núi giữ một vị trí quan trọng về chính trị, kinh tế và an ninh
quốc phòng. Đồng bào thiểu số du canh du cư tập trung chủ yếu tại vùng biên giới,
vùng núi cao là những địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng an ninh. Cho
nên, thực hiện ĐCĐC để tạo lập cuộc sống ổn định cho người dân là vấn đề quan
trọng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nhằm tăng cường phòng thủ đất nước.
2.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về ĐCĐC 15

Công tác ĐCĐC đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm. Đây là
một nội dung xuyên suốt trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ về
phát triển kinh tế xã hội miền núi nhằm góp phần thực hiện chủ trương, đường lối
chính sách dân tộc. Bốn mươi năm qua, chủ trương chính sách ĐCĐC của Đảng
và Nhà nước được chia làm hai thời kỳ. Mỗi thời kỳ, công tác ĐCĐC có hình thức
tổ chức thực hiện mang đặc điểm khác nhau.

- Giải quyết chính sách cho vùng ĐCĐC như: lương thực, trợ cấp và cho
vay vốn và vật tư, chính sách sử dụng đất đai và quản lý rừng.
Đối tượng của cuộc vận động không chỉ là dân du canh miền núi mà cả
người miền xuôi di cư lên và người dân trong các nông, lâm trường. Nghị quyết
38/CP (1968) là cái mốc quan trọng của công tác ĐCĐC, là cơ sở cho việc thực
hành ĐCĐC ở miền núi nước ta với tham vọng hoàn thành công tác này trong 3
năm.
Trong suốt những thập kỷ 60-70, công tác ĐCĐC tập trung vận động người
dân tham gia các HTX nông nghiệp hoặc làm việc hưởng lương tại các nông lâm
trường nhà nước. Mục tiêu ĐCĐC trong thời kỳ này là ổn định đời sống của đồng
bào du cư, ổn định sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân bằng việc xây dựng hệ
thống thuỷ lợi, khai hoang ruộng nước và làm nương định canh, xây dựng cơ sở
vật chất cho cuộc sống định cư (đường giao thông, trường học, trạm xá…). Những
vấn đề đó được tiến hành thông qua các HTX thành một phong trào rộng lớn vận
động người dân từ bỏ lối sống du canh du cư để thực hiện ĐCĐC. Nhà nước đã có
nhiều chính sách trên các lĩnh vực: Chính sách đưa cư dân miền xuôi lên tăng
cường lao động cho miền núi; chính sách về đầu tư cho thuỷ lợi, khai hoang; chính
sách đào tạo cán bộ miền núi; chính sách về lưu thông phân phối cung cấp các mặt
hàng thiết yếu, điều chỉnh giá nông sản ưu tiên vùng cao, chính sách phát triển văn
hoá, giáo dục, y tế, chính sách xây dựng vùng kinh tế mới…
b, Thời kỳ từ 1990 đến nay
Trong số hàng loạt các văn bản chính sách đề cập đến ĐCĐC đã có sự đổi
mới quan trọng từ đầu thập kỷ 90 trở đi, đánh dấu bằng Nghị quyết 22/TW ngày
27/11/1989 và Quyết định số 72-HĐBT ngày 13/3/1990. Hội nghị toàn quốc về
ĐCĐC họp vào 4/1990 đã đề cập đến nội dung, phương pháp đổi mới công tác 17

ĐCĐC trong tình hình mới là phải đầu tư theo dự án, theo phương thức hỗ trợ sản


trong những dự án thực hiện Chương trình xoá đói giảm nghèo và được bố trí
nguồn vốn thực hiện riêng.
Các chính sách đã cụ thể hoá cơ cấu đầu tư xây dựng và lồng ghép các
chương trình dự án trên cùng địa bàn xã ĐCĐC như: Dự án ĐCĐC, Dự án quy
hoạch bố trí lại dân cư, Dự án ổn định sản xuất nông lâm nghiệp, Chương trình
135, Chương trình 661, Chương trình trung tâm cụm xã, Chương trình hỗ trợ dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình
nước sinh hoạt quốc gia.
Nội dung công tác ĐCĐC trong giai đoạn này (theo Quyết định số
140/1999/QĐ-BNN-ĐCĐC ngày 14 tháng 10 năm 1999) là: Sắp xếp lại dân cư, tổ
chức lại sản xuất, xây dựng nông thôn mới đối với bộ phận đồng vào dân tộc thiểu
số còn du canh du cư, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, củng cố an ninh quốc
phòng. Mục tiêu của công tác ĐCĐC là tạo điều kiện cho bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số ở miền núi còn du canh phá rừng có nhà ở, có đất canh tác hoặc việc
làm ổn định, giảm dần đói nghèo, bảo vệ rừng và môi trường sinh thái. Đối tượng
của ĐCĐC là các hộ dân du canh du cư có rất ít hoặc không có đất canh tác ổn
định. Nguồn sống chủ yếu của hộ dân dựa vào thu nhập từ phá rừng để sản xuất
lương thực từ 50% trở lên, chỗ ở không ổn định và thay đổi theo nương rẫy du
canh. Những yêu cầu mà dự án ĐCĐC phải đạt được là: Hoạt động canh tác phải
được ổng định trên địa bàn cố định; đồng bào cư trú ổn định tại một nơi; thu nhập
hộ gia đình chiếm từ 80% trở nên là do sản xuất định canh đem lại; địa bàn định
cư phải đảm bảo y tế, giáo dục và lương thực.
Cùng với việc ĐCĐC các nhóm dân tộc thiểu số tại địa phương, Đảng và
Nhà nước còn đề ra kế hoạch điều phối dân cư và lao động ở miền núi theo hướng
di cư đồng bào miền xuôi lên miền núi để khai hoang thành lập những khu định cư
mới gọi là vùng kinh tế mới. Vấn đề này đã được đề cập đến trong nhiệm vụ và
phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất của Đảng và Nghị quyết số
71/NQ-TW. Nghị quyết số 08/NQ-TW (4-1963) đã mở ra phương hướng cho
phong trào này. Tiếp theo, các quyết định của Chính phủ đã quy định rõ nội dung

đời sống), văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần. Cách tiếp cận như vậy được sử
dụng trong nghiên cứu ở luận văn này. 20

Văn hoá tộc người là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân định
tộc người bởi nó có chức năng tộc người.
Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt
văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tâm lý, tình cảm, phong tục tập quán… để
người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác (Đề tài KX 06 – 05 , 1998: 25
-26). Văn hoá tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển ý thức tộc người. Một
tộc người bị đồng hoá, bị mất bản sắc văn hoá riêng thì ý thức tộc người sẽ mai
một dẫn đến tộc người bị diệt vong. Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố văn
hoá mang tính đặc trưng và đặc thù tộc người, thực hiện chức năng cố kết cộng
đồng tộc người và phân biệt tộc người.
Đặc trưng văn hoá tộc người thể hiện trên toàn bộ đời sống xã hội từ ngôn
ngữ, trang phục, tôn giáo tín ngưỡng, văn hoá dân gian, tri thức về tự nhiên, xã
hội, con người, tri thức sản xuất, tâm lý và tính cách dân tộc, phong tục tập quán
cho đến nhà cửa, ăn uống… Sự tổng hoà các đặc trưng sinh hoạt văn hoá trong
mối liên hệ giữa chúng tạo thành truyền thống văn hoá tộc người. Truyền thống
văn hoá tộc người hình thành trong quá trình lịch sử tộc người được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Văn hoá tộc người bao giờ cũng mang sắc thái và bản sắc riêng để phân biệt
dân tộc đó với dân tộc khác. Bản sắc văn hoá tộc người vừa chịu tác động của
nhân tố kinh tế xã hội để có sự biến đổi vừa tồn tại bền vững trong tiến trình lịch
sử, có cốt lõi xuyên qua mọi giai đoạn lịch sử của tộc người. Mất bản sắc văn hoá,
tộc người sẽ bị hoà tan. Trường hợp những cư dân Bách Việt ở Nam sông Dương
Tử đã bị Hán hoá trước đây là một thí dụ.
Văn hoá nằm trong quy luật vận động phát triển nói chung. Văn hoá là biến

quảng bá, khuyến mại để người dân thấy lợi thì làm, hướng người ta đi theo ý đồ
mang tính duy lý. Trong trường hợp sự biến đổi tự thân, bản sắc tộc người vẫn
được giữ gìn và phát triển. Sự biến đổi văn hoá do đồng hoá hoặc can thiệp cưỡng
bức có thể làm mất đi bản sắc văn hoá mặc dù đời sống có thể nâng lên.
Theo Phan Hữu Dật (1998: 400), trong các quốc gia, sự phát triển của văn
hoá thường theo hai con đường.
- Sự điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ luật pháp, tài chính, kế
hoạch, giáo dục, các phương tiện truyền thông đại chúng vv… 22

- Sự phát triển tự phát, tự giác từ phía người dân.
Từ những vấn đề trình bày ở trên chúng ta thấy rằng, ĐCĐC có thể coi là
một quá trình can thiệp của Nhà nước vào văn hoá tộc người. Mục đích của
ĐCĐC là nhằm ổn định đời sống sản xuất và sinh hoạt của các tộc người thiểu số
du canh ở miền núi, hỗ trợ cho họ tạo lập một cuộc sống định cư và canh tác ổn
định, xoá bỏ phương thức sản xuất cũ được coi là lạc hậu. Những người hoạch
định chính sách mong muốn và tin tưởng rằng, ĐCĐC sẽ cải thiện được điều kiện
sống của các tộc người du canh du cư cùng với sự phát triển bền vững ở miền núi
Việt Nam. ĐCĐC là một chương trình mang tính nhân văn sâu sắc song trong quá
trình thực hiện có thể để lại hậu quả là sự mất mát kiến thức bản cổ truyèen hoặc
phai nhạt bản sắc văn hoá tộc người.
3.2. ĐCĐC là sự can thiệp mang tính duy lý của Nhà nước
Như đã nói, bản chất của ĐCĐC như là một quá trình can thiệp bằng vận
động, khuyến khích những người sống du canh du cư hoặc định canh du canh phải
ổn định nơi ở và canh tác, chấm dứt việc đốt phá rừng làm nương rẫy một cách
bừa bãi.
Người ta cho rằng, sản xuất nương rẫy truyền thống của các dân tộc thiểu số
là một phương thức “nguyên thuỷ” và lạc hậu. Do đó, các biện pháp can thiệp để

nội dung của chính sách ĐCĐC ở miền Bắc được triển khai tại đây với một vài
thay đổi nhỏ.
Các chương trình dự án ĐCĐC đang tiến hành được thiết kế theo mô hình
sẵn và triển khai từ trên xuống theo cơ chế xin cho hoặc dải đều. Việc xây dựng dự
án không sát thực tế, thậm chí chưa được điều tra khảo sát kỹ ở cơ sở. Người dân
chỉ biết thụ động trông chờ chương trình dự án và máy móc làm theo. Có lẽ, thật là
ít dự án tính đến đặc trưng vùng, tộc người, điều kiện thực tế ở cơ sở trong khi
quan điểm đường lối ĐCĐC luôn quán triệt điều này. Nhiều dự án không chỉ gây
ra lãng phí lớn ngân sách mà còn tác động tiêu cực đến văn hoá tộc người.
Ngót 40 năm thực hiện ĐCĐC nhưng du canh du cư, nhất là di cư tự do ở
đồng bào dân tộc thiểu số còn diễn ra mạnh mẽ. Rừng vẫn bị tàn phá, dân số gia
tăng, thiếu đất sản xuất, nghèo đói, bản sắc tộc người bị thương tổn là những vấn
đề đang diễn ra gay gắt. Người dân không bị thuyết phục về một cuộc sống làm ăn
ổn định mà quay trở lại sinh sống bằng cách đốt rừng làm rẫy. Tình trạng tái du 24

canh du cư đã và đang tiếp diễn. Nghị quyết 22/NQ-TW năm1989 đã khẳng định:
“tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nông nghiệp một cách máy móc, rập khuôn
theo mô hình đồng bằng, thoát ly trình độ sản xuất và điều kiện xã hội ở miền núi”
(Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, 2000: 170).
3.3. ĐCĐC và biến đổi văn hoá tộc người
Như vậy, ĐCĐC với tư cách là một quá trình can thiệp vào văn hoá tộc
người bao gồm tổng thể các hoạt động cơ chế chính sách, biện pháp, tổ chức, con
người thực hành nhằm xoá bỏ phương thức du canh truyền thống, xác lập phương
thức sản xuất mới, thay đổi lối sống du canh du cư chuyển sang ĐCĐC. Cho nên,
ĐCĐC đã tác động và ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống văn hoá xã hội của tộc
người từ vật chất, xã hội, tinh thần đến phương thức sản xuất, lề lối làm ăn, phong
tục tập quán Một khi sản xuất thay đổi cũng kéo theo sự thay đổi trên các lĩnh

Trong quá trình ĐCĐC, sự tác động vào văn hoá tộc người của Nhà nước
tiến hành bằng hình thức vận động thông qua hệ thống các biện pháp: chính sách,
kế hoạch, nguồn vốn đầu tư theo chương trình dự án, hệ thống pháp luật, tuyên
truyền, khuyến khích, giáo dục, sử dụng các phương tiện thông tin… Những biến
đổi kinh tế xã hội của tộc người do ĐCĐC nhằm tạo điều kiện cho Nhà nước quản
lý theo ý đồ nhưng bản sắc văn hoá tộc người có thể mất đi dù đời sống người dân
có thể được cải thiện.
Những yếu tố tác động đó đã tạo ra một không gian mới về sự biến đổi văn
hoá tộc người. Việc bố trí, sắp xếp dân cư làm cho hôn nhân hỗn hợp và tiếp xúc
tộc người ngày càng tăng. ảnh hưởng văn hoá của các tộc người dân số đông và có
trình độ phát triển cao hơn đến các tộc người nhỏ ngày càng mạnh mẽ. Trong cái
không gian tộc người đã thay đổi, quá trình giao thoa, đan xen và hỗn dung văn
hoá tộc người ngày càng gia tăng cả về mức độ và phạm vi.
Dưới tác động của ĐCĐC, quá trình tộc người và giao thoa văn hoá tộc
người ở miền núi nước ta đã có những biến đổi theo chiều hướng mới.
Sự bố trí lại dân cư, sự di cư trong nội bộ vùng và toàn quốc gia tăng đã làm
phân tán tộc người, sự liên kết nội bộ tộc người yếu đi. Cộng đồng tộc người bị xé
lẻ. Trước tình hình ấy, ý thức tộc người có sự thức tỉnh. Đặc trưng và lợi ích tộc
người được nhận thức lại và được khuếch trương lên. Điều đó là một trong các


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status