Quan niệm của C.Mác về Tha hóa trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 - Pdf 25

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN

LÊ KIềU ANH
QUAN NIệM CủA C.MáC Về "THA HOá"
TRONG "BảN THảO KINH Tế - TRIếT HọC NĂM 1844" LUậN VĂN THạC Sỹ
Chuyên ngành: Triết học

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80 Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Hữu Toàn
Hà Nội - 2014

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS, TS. Đặng Hữu Toàn. Các số liệu, tài liệu trong luận văn
là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng. Hà nội, ngày tháng năm 2014

KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã trải qua một chặng
đường hơn 25 năm. Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới trên nền
tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam
chúng ta đã vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ ổn định và phát triển
mới. Cùng với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, diện mạo đất nước ta đã
có nhiều thay đổi tích cực trên tất cả các lĩnh vực, chúng ta đã vượt ra khỏi
tình trạng của một nước kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi
tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập tự chủ và
chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh
mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến phức tạp, không thể xem
thường. Một trong những thách thức đó là “nguy cơ tha hóa” do tác động mặt
trái của kinh tế thị trường.
Phát triển kinh tế thị trường, “nguy cơ tha hóa” đã trở thành một hiện
thực trong đời sống xã hội nước ta. Đó không chỉ là sự tha hóa về đạo đức, về
lối sống và do vậy, là sự “tha hóa bản chất con người”, của một bộ phận dân
cư, trong đó có không ít cán bộ, đảng viên, mà còn là sự tha hóa của lao động,
là “lao động bị tha hóa” do cơ chế thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và do các thành phần kinh tế mà chúng ta chủ
trương phát triển lâu dài, như kinh tế tư nhân, kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,… tạo ra.

quan, đúng đắn hơn về “nguy cơ tha hóa” đang hiện hữu trong nền kinh tế thị
trường, trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay và qua đó, góp phần tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để khắc phục và dần đi đến xóa bỏ hiện tượng này
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.

3
Với những suy nghĩ trên, tác giả đã lựa chọn “Quan niệm của C.Mác về
“Tha hóa” trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 làm đề tài nghiên cứu
để thực hiện luận văn Thạc Sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C.Mác là tác phẩm mà ngay
từ khi mới xuất hiện cho đến nay vẫn luôn là trung tâm của các cuộc tranh
luận gay gắt về di sản lý luận và sự nghiệp sáng tạo khoa học của C.Mác, là
đề tài thu hút sự quan tâm sâu sắc của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trên thế
giới. Ở Việt Nam, cũng đã có những công trình, bài viết được công bố về một
nội dung, một vấn đề nào đó trong tác phẩm này của C.Mác. Song, nghiên
cứu chuyên sâu về quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong tác phẩm này,
có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có. Chúng ta cũng đã có những công trình
nghiên cứu về quan niệm của C.Mác về “tha hóa”, chẳng hạn như công trình
nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Huyền - “Quan niệm của C.Mác về
tha hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự phát triển con người Việt
Nam hiện nay” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010).
Chúng ta cũng đã có những công trình, bài viết giới thiệu khái quát về
tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 của C.Mác. Đó là: Bài viết
của tác giả Đặng Hữu Toàn - “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844” - Bước
chuyển quan trọng của triết học Mác, chủ nghĩa Mác (Tạp chí triết học, số 4 -
2003); PGS,TS. Doãn Chính, TS. Đinh Ngọc Thạch (Chủ biên) - “Vấn đề triết
học trong tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin” (Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2003); Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn, khoa triết học - “Giới thiệu kinh điển triết học Mác -

chí Triết học, số 10 - 2003); Nguyễn Thế Nghĩa - “Lao động - nguồn gốc của
cái đẹp trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp chí Triết học, số 10 -
2004); Vũ Thị Kiều Phương - “Sự phê phán của C.Mác đối với phép biện
chứng duy tâm của Hê-ghen trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 (Tạp
chí Triết học, số 11 - 2003).

5
Như vậy, có thể nói, ở nước ta, cho đến nay vẫn chưa có những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” trong một
tác phẩm được coi là cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng không chỉ
của C.Mác, mà cả triết học Mác, chủ nghĩa Mác từ lập trường dân chủ cách
mạng sang chủ nghĩa cộng sản và từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, với nhiều luận điểm, quan điểm, tư tưởng được đưa ra ở đây mà sau này,
C.Mác đã sử dụng với sự phát triển và bổ sung hợp lý trong các tác phẩm của
ông - Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn này là góp phần làm rõ quan niệm của
C.Mác về “Tha hóa” trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 để trên cơ sở
đó, bước đầu chỉ ra ý nghĩa của quan niệm này đối với việc nhận diện và khắc
phục hiện tượng tha hóa trong đời sống kinh tế ở nước ta hiện nay.
3.2. Để thực hiện mục đích đó, luận văn phải giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:
Thứ nhất, trình bầy bối cảnh ra đời và những nội dung chủ yếu của
“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”.
Thứ hai, luận giải quan niệm của C.Mác về “Tha hóa” (Khái niệm “tha
hóa”, sự “tha hóa của bản chất con người”, sự “sự tha hóa của lao động” và “lao
động bị tha hóa”, sự xóa bỏ tha hóa) trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.
Thứ ba, nhận diện hiện tượng tha hóa trong đời sống kinh tế ở nước ta
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

gồm 3 chương, 9 tiết.

7
Chƣơng 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA “BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844”

1.1. Bối cảnh ra đời Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844
Từ mùa xuân năm 1843 đến năm 1844 là giai đoạn đóng vai trò quyết
định đối với sự hình thành chủ nghĩa Mác. Bởi lẽ, đây là giai đoạn C.Mác
tổng hợp các quan điểm triết học, kinh tế và chính trị thành một hệ thống
thống nhất toàn vẹn trên cơ sở thế giới quan duy vật và phương pháp luận
khoa học. Ngay từ những năm đầu trên con đường sáng tạo lý luận, khi bắt
đầu xem xét đời sống kinh tế - xã hội trong xã hội tư bản, C.Mác đã nhận thấy
ở đó sự tha hóa của con người do lao động bị tha hóa, mà nguyên nhân sâu xa
của nó là ở sự thống trị của chế độ tư hữu. Từ đó, ở ông đã hình thành tư
tưởng về sự giải phóng con người khỏi sự tha hóa đó. Tư tưởng này đã được
C.Mác luận giải một cách tập trung và rõ ràng trong Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, tác phẩm được ông viết trong giai đoạn mà thế giới quan và
lập trường chính trị của ông chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù, đây chỉ là một
trong nhiều bản thảo chưa được hoàn thiện trọn vẹn, song nó vẫn được thừa
nhận là tác phẩm lớn của C.Mác, tác phẩm thấm đượm tinh thần nhân văn sâu
sắc, bởi từ việc luận giải sự tha hóa của con người dưới góc độ kinh tế, ông đã
đưa ra tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi sự tha hóa ấy. Giờ đây, một
lần nữa, nghiên cứu tác phẩm này, tác giả thấy, tư tưởng đó của C.Mác vẫn
còn nguyên giá trị và mang đầy đủ ý nghĩa của nó.
Nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta thấy, thuật ngữ “tha hóa” đã
được khá nhiều nhà triết học đề cập tới mà Hêghen và Phoiơbắc là những đại
biểu điển hình. Hêghen coi các hiện tượng của tự nhiên và xã hội là sự tồn tại

tưởng sâu sắc cùng các dự báo quan trọng khác của C.Mác và do vậy, họ đã
vô tình hạ thấp ý nghĩa to lớn của tác phẩm này. Trái lại, nhiều nhà lý luận và
tư tưởng phương Tây, trong khi đánh giá cao một cách khá đúng đắn tầm

9
quan trọng của Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, lại cho rằng chỉ tác
phẩm này mới chính là tác phẩm có giá trị đích thực của C.Mác chân chính,
của C.Mác thật sự nhân đạo chủ nghĩa. Cần khẳng định rằng, không có “hai
ông C.Mác” và do vậy, không thể đem C.Mác từ năm 1844 về trước đối lập
với C.Mác sau năm 1844. Chỉ có một C.Mác với sự tiến triển cùng sự chín
muồi từng bước của các quan điểm đã giúp C.Mác chuyển từ lập trường duy
tâm sang lập trường duy vật biện chứng. Việc phân tích sự tiến triển của các
quan điểm ấy cùng những nội dung khác của Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844 có ý nghĩa quan trọng để hiểu được những giá trị mà C.Mác đã đạt được
và để lại cho hậu thế, cho chúng ta hôm nay.
Chúng ta đều biết rằng, từ rất sớm, C.Mác đã cố gắng đi tìm “chìa khóa
của lịch sử đích thực”, tức là đi tìm chủ thể của lịch sử.
Trong thời kỳ đầu tiên trên bước đường học tập và nghiên cứu của
mình, cụ thể là trong Luận án tiến sỹ “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên
của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya”, C.Mác đã thử đi tìm chủ thể
đó đi tìm chiếc chìa khóa đó từ trong triết học tự ý thức và dần dần ông đã
thấy được vai trò tích cực của tự ý thức đối với lịch sử. Tuy nhiên, sau mấy
năm tham gia các hoạt động xã hội, nhất là ở giai đoạn làm cộng tác viên, rồi
sau đó làm biên tập viên của tờ Báo tỉnh Ranh, từ tháng Giêng năm 1842 cho
đến khi tờ báo bị đình bản vào tháng 3 năm 1843, C.Mác đã xem xét các vấn
đề một cách khác hơn, mới mẻ hơn, cụ thể là xuất phát từ lợi ích vật chất của
xã hội công dân. Chính từ góc độ này, C.Mác đã bắt tay vào tìm hiểu sâu hơn,
cặn kẽ hơn những điều bí ẩn của lịch sử. Tác phẩm Góp phần phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen được C.Mác viết vào năm 1843 đánh dấu chặng
đường quan trọng đó trong việc tìm kiếm “chiếc chìa khóa của lịch sử đích

nhận một kết cấu không theo trình tự các mục như cách sắp xếp thông thường.
Bản thảo thứ nhất có các phần bàn về tiền công, về lợi nhuận của tư bản, về
địa tô và lao động bị tha hóa. Nếu bản thảo thứ hai chỉ nghiên cứu về quan hệ
sở hữu tư nhân thì bản thảo thứ ba phong phú hơn với các phần như bản chất
của chế độ tư hữu trong sự phản ánh của kinh tế chính trị học; chủ nghĩa cộng

11
sản; nhu cầu, sản xuất và phân công lao động; tiền; phê phán phép biện chứng
duy tâm của Hêghen và triết học nói chung của Hêghen.
Vấn đề trước tiên là tiền công. Tiền công, lợi nhuận tư bản và địa tô là
những hình thức thu nhập căn bản nhất. Sự phân tích của C.Mác bắt đầu từ lợi
nhuận tư bản, từ đó lần ra sợi chỉ đỏ xuyên suốt của xã hội tư bản, những mặt
trái của trật tự đó đối với con người, hay nói như Phoiơbắc, đối với “quan hệ
chân chính”. Còn về tư bản, theo nhà kinh tế chính trị Anh - Xmít, là “lao
động tích lũy”. Lẽ đương nhiên, “lao động tích lũy” không phải lao động đơn
thuần, mà chỉ là lao động đem đến cho chủ sở hữu một khoản lợi nhuận nhất
định, mới mang ý nghĩa đó. Nói khác đi, tư bản là lao động của người được
tích lũy, là “quyền tư hữu về sản phẩm lao động của người khác” [75, tr. 89].
Như vậy, nghịch lý của xã hội là người sản xuất và người chiếm hữu trong
trường hợp này tách biệt nhau, quyền lực thuộc về người chiếm hữu. C.Mác
viết: “Tư bản là quyền chỉ huy lao động và sản phẩm của lao động. Nhà tư
bản có được quyền đó không phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay phẩm
chất con người của hắn, mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản.
Sức mạnh của hắn là sức mua của tư bản của hắn, sức mua mà không có gì có
thể chống lại nổi” [75, tr.89-90]. Như vậy là C.Mác đã tước bỏ “vầng hào
quang thần thánh” bao quanh “lao động được tích lũy”, tức là tư bản, và cũng
vạch ra thực chất của sự sùng bái tư bản, tôn thờ đồng tiền, sự sùng bái mà
theo ông, đã đẩy phần lớn những người làm thuê đến tình trạng chỉ còn lại
“món hàng” cuối cùng để mặc cả trong cuộc mua bán với chủ tư bản, đó là
sức lao động. Người công nhân đã trở thành hàng hóa, và chỉ cần tìm được

quan hệ phi nhân tính. “Ngay cả trong xã hội có lợi nhất cho công nhân,
C.Mác viết, - hậu quả tất yếu đối với công nhân cũng là tình trạng lao động
cật lực, tình trạng bị chết yểu, tình trạng bị hạ xuống đóng vai một cái máy,
một nô lệ của tư bản mà sự tích lũy của nó là cái nguy hiểm cho công nhân,
tình trạng có một cuộc cạnh tranh mới, tình trạng một bộ phận công nhân
không tránh khỏi cảnh chết đói hoặc đi ăn xin” [75, tr. 77]. Như vậy, sự gia
tăng của cải của nhà tư bản lại dẫn đến sự bần cùng hóa và đau khổ của công
nhân - đó là một nghịch lý mà vào thời C.Mác trở thành hiện tượng phổ biến.

13
Điều đáng chú ý ở đây là, trong khi phân tích các mâu thuẫn giữa tiền
công, lợi nhuận của tư bản và địa tô, C.Mác đã phát hiện ra hiện tượng “tha
hóa lao động” và cùng với đó là khái niệm “lao động bị tha hóa”. Vì vậy, với
mong muốn phải tìm cho được những bí ẩn của lịch sử ở trong khoa kinh tế
chính trị và trong kinh tế học, C.Mác đã tiến hành việc nghiên cứu sâu sắc
hiện tượng tha hóa lao động cùng với các biểu hiện của nó.
Chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng, nghiên cứu tha hóa lao động
là một thử nghiệm quan trọng của C.Mác. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích
lao động bị tha hóa này, C.Mác đã tiến hành mổ xẻ các quan hệ sở hữu tư
nhân, vạch ra bản chất chung của sở hữu tư nhân và nguồn gốc của sở hữu tư
nhân. C.Mác viết: “Từ khái niệm lao động bị tha hóa, qua phân tích chúng ta
đã rút ra khái niệm sở hữu tư nhân” [75, tr. 144]. Tiếp đó, C.Mác chỉ ra rằng,
“mặc dù sở hữu tư nhân biểu hiện ra là cơ sở, là nguyên nhân của lao động bị
tha hóa, nhưng thực ra là ngược lại, nó hóa ra là kết quả của lao động bị tha
hóa cũng giống như thần thánh lúc đầu không phải là nguyên nhân, mà là kết
quả của sự nhầm lẫn của lý trí con người. Sau này, quan hệ đó biến thành
quan hệ tác động lẫn nhau”. Và, “sở dĩ có được khái niệm sở hữu tư nhân là
nhờ phân tích khái niệm lao động bị tha hóa, tức là khái niệm con người bị tha
hóa, khái niệm đời sống bị tha hóa” [75, tr 144].
Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 khi phân tích bản chất của sở

sự tiến bộ của lịch sử có phần được kích thích bởi sự đấu tranh giữa lao động
và tư bản mà rốt cuộc, sẽ dẫn toàn bộ quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa đến chỗ diệt vong. Về điều này, C.Mác viết: “Sự đối lập ấy giữa lao
động và tư bản được đẩy tới cực đoan, không khỏi trở thành điểm cao nhất,
trình độ cao nhất và sự diệt vong của toàn bộ quan hệ tư hữu” [75, tr. 150].
Toàn bộ sự phân tích của C.Mác về lao động bị tha hoá, và nhất là về
sở hữu tư nhân, đã dẫn ông đến kết luận quan trọng trong phần bàn về chủ
nghĩa cộng sản như sau: “Chủ nghĩa cộng sản với tính cách là sự xóa bỏ một
cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha hóa ấy của con người - và do đó với
tính cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người

15
và vì con người; do đó với tính cách là con người xã hội, nghĩa là có tính chất
người - sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự
phong phú của sự phát triển trước đó. Chủ nghĩa cộng sản như vậy, với tính
cách là chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa nhân đạo; với tính cách là chủ
nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên; nó là sự giải quyết thực sự mâu
thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người, là sự giải
quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa sự đối tượng hóa
và sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài. Nó là sự giải
quyết câu đố của lịch sử và nó biết rằng nó là sự giải quyết ấy” [75, tr. 157].
Quan điểm trên đây tuy chưa phải là quan niệm duy vật lịch sử thật sự
hoàn bị, nhưng có thể nói, đây là quan niệm mở đầu cho một giai đoạn mới về
chất, bởi vì, nhờ quan điểm này mà C.Mác đã tiến dần đến chỗ giải thích được
một cách đúng đắn về quy luật phát triển của lịch sử. Đồng thời, chính sự
phân tích lao động bị tha hóa đã giúp C.Mác dần tìm ra được nguyên nhân
thật sự của sự đối lập giữa tư bản và lao động làm thuê, giữa các giai cấp cơ
bản trong xã hội tư bản, giữa giai cấp những người bóc lột và giai cấp những
người bị bóc lột, tức là giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Như vậy, chừng nào mà trong xã hội loài người còn có sản xuất hàng

người, mới là tồn tại của con người đối với người khác và tồn tại của người
khác đối với người đó, mới là nhân tố sinh hoạt của hiện thực con người; chỉ
có trong xã hội, tự nhiên mới biểu hiện ra là cơ sở của tồn tại có tính chất
người của bản thân con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con
người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với người và tự
nhiên mới trở thành con người đối với con người. Như vậy, xã hội là sự thống
nhất bản chất đã hoàn thành của con người với tự nhiên, sự phục sinh chân
chính của tự nhiên, chủ nghĩa tự nhiên đã được thực hiện của con người và
chủ nghĩa nhân đạo đã được thực hiện của tự nhiên” [75, tr. 170].
Với một quan niệm như vậy về con người, về sự gắn bó của con người
với tự nhiên và xã hội, C.Mác coi việc nghiên cứu con người là nhiệm vụ vô

17
cùng quan trọng của tất cả các khoa học. Đánh giá về các khoa học thời đó,
C.Mác viết: “Các khoa học tự nhiên đã triển khai một hoạt động to lớn và đã
tích lũy những tài liệu không ngừng tăng thêm. Nhưng triết học vẫn xa lạ đối
với chúng cũng như chúng vẫn xa lạ đối với triết học” [75, tr. 178] . Mặc dù
vậy, cả hiện tại lẫn trong tương lai, theo C.Mác, “con người là đối tượng trực
tiếp của khoa học tự nhiên”, “còn tự nhiên là đối tượng trực tiếp của khoa học
về con người” [75, tr. 179]. Từ đó, C .Mác đã đưa ra một dự báo thiên tài và
đang ngày càng trở thành sự thật: “Về sau khoa học tự nhiên bao hàm trong
nó khoa học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó
khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học” [75, tr. 179]. Điều đó có nghĩa là,
dù có thế nào chăng nữa thì các khoa học, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều có
nhiệm vụ nghiên cứu con người hoặc phục vụ con người, kể cả những khoa
học nghiên cứu các đối tượng tưởng như rất xa đối với con người.
Lý tưởng của C.Mác về việc mọi khoa học phải phục vụ con người, có
thể nói, cũng là lý tưởng chung của rất nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại
qua các thời đại. Đó cũng chính là lý tưởng cao cả của chủ nghĩa nhân đạo
được C. Mác thể hiện trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844.

nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại - để lý giải những
vấn đề của triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản, nên C.Mác
đã đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo lý luận của ông và bản thân tác
phẩm này được họ coi là kiệt tác về cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác,
học thuyết Mác. Từ những đánh giá như vậy về C.Mác và học thuyết của ông,
họ đã tỏ ra tiếc nuối là tại sao C.Mác đã không còn là “C.Mác thời trẻ” ở giai
đoạn sau này trong sự nghiệp sáng tạo của ông.
Đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng, trong Bản thảo kinh tế triết học
năm 1844, với các phạm trù “lao động bị tha hóa” và “sự tha hóa của lao
động”, C.Mác đã thực hiện thành công ý định xây dựng một hệ thống lý luận
triết học có khả năng soi sáng con đường giải phóng con người, giải phóng
nhân loại, khắc phục triệt để sự tha hóa của bản chất con người. Trong khi
không thể phủ nhận được sự thực hiển nhiên đó, một số người mệnh danh là

19
những “nhà phê phán triết học Mác” lại lấy đó để giải thích một cách xuyên tạc
quan điểm nhân văn của C.Mác thời trẻ, rồi đem đối lập với những quan điểm
duy vật triệt để sau này của C.Mác và cho rằng, từ sau tác phẩm này, C.Mác đã
“lãng quên”, đã “bỏ rơi” con người, đã “xa rời” tư tưởng nhân đạo và không
còn mang tính nhân văn do đã cắt nghĩa lịch sử nhân loại không phải từ con
người mà từ nguyên nhân kinh tế. Một số người khác, cũng với những lập luận
như vậy, lại cho rằng, chủ nghĩa nhân văn mà C.Mác đã tạo ra trong Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844 là nhờ chịu ảnh hưởng sâu nặng chủ nghĩa nhân
văn nhân loại học của Phoiơbắc và nhờ vậy, C.Mác đã trở thành nhà lý luận
đáng kính trọng của chủ nghĩa nhân văn tự nhiên, song thật đáng tiếc, ông đã
rời bỏ chủ nghĩa nhân văn này để chuyển sang chủ nghĩa nhân văn cộng sản mà
họ coi là thứ chủ nghĩa nhân văn ở tầm vóc thấp hơn nhiều.
Lại đã và vẫn còn có những ý kiến cho rằng, đây là tác phẩm mà mọi
vấn đề mới chỉ được C.Mác đưa ra dưới dạng phác thảo, chung chung, trừu
tượng và hết sức khó hiểu. Về kinh tế chính trị học, C.Mác chưa có được sự

niệm về con người với tư cách một thực thể sinh học - xã hội mang tính giai
cấp và đời sống sinh tồn của con người với tư cách sự thực hiện sức mạnh bản
chất của con người xã hội mang tính giai cấp được bắt đầu trong Tư bản.
Trong tất cả những ý kiến trên về tác phẩm này của C.Mác, theo chúng
tôi, có nhiều điểm không đúng thậm chí còn bóp méo, xuyên tạc tư tưởng chủ
đạo của C.Mác, song cũng có những điểm hợp lý, nhất là về những hạn chế
mà C.Mác chưa thể vượt qua và không thể tránh khỏi. Song, do không thể
đưa ra đầy đủ những luận cứ để bác bỏ hay khẳng định những điểm đúng, sai
ở những ý kiến đánh giá ấy, nên chúng tôi chỉ có thể bày tỏ sự tán đồng với
đánh giá của nhiều nhà lý luận mácxít Nga rằng, Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844 là tác phẩm đánh dấu bước chuyển quan trọng của C.Mác từ lập
trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản và từ chủ nghĩa duy tâm
sang chủ nghĩa duy vật và nhiều luận điểm, quan điểm, tư tưởng được đưa ra
ở đây đã được C.Mác sử dụng với sự phát triển và bổ sung hợp lý trong các
tác phẩm sau này của ông.

21
Thật vậy, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 - đó trước hết là kết
quả của những tìm tòi khoa học của C.Mác cho đến thời điểm đó trên cơ sở
nghiên cứu một cách có phê phán triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, đặc biệt là kinh tế chính trị học
Anh. Việc C.Mác tập trung nghiên cứu một cách có phê phán toàn bộ khoa
kinh tế chính trị hiện tồn được khích lệ bởi tác phẩm của Ph.Ăngghen - Lược
thảo phê phán khoa học kinh tế - chính trị (cuối 1843 - tháng Giêng l844)
đăng trên tạp chí Pháp - Đức biên niên. Tác phẩm này của Ph.Ăngghen đã
gây nên một ấn tượng rất sâu sắc đối với C.Mác, thậm chí ông còn coi đây là
tác phẩm thiên tài. Trước khi viết Bản thảo kinh tế - triết học 1844, C. Mác đã
đọc kỹ Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị của Ph.Ăngghen, tóm tắt và
“vạch ra dưới hình thức chung nhất những yếu tố đầu tiên của tác phẩm này
[75, tr.68]- những kết luận mà Ph.Ăngghen đã rút ra khi tiến hành phê phán


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status