Quan niệm của C.Mác về tha hoá, giải phóng con người và ý nghĩa của nó đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.
Ths.Nguyễn Thị Thanh Huyền
QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VỀ THA HOÁ, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY. Hà nội. 2005
PHẦN MỞ ĐẦU.
1.Lý do chọn đề tài.
1. Lý luận Mác-Lê Nin về hình thái kinh tế -xã hội là lý luận khoa học đã
phản ánh chính xác, sâu sắc bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, chỉ ra xu
hướng vận động của nó và dự đoán về sự ra đời của xã hội mới xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đó là xã hội phát triển cao hơn về chất so với các hình thái xã hội
trước đó. Trong xã hội đó con người được sống đúng bản chất của mình. được tự
do phát triển và hoàn thiện mình. Khi phân tích thực trạng xã hội tư bản chủ
nghĩa, Mác và Ăng Ghen đã vạch ra mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất. Chính chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất đã dẫn đến bất công, áp
bức, đến sự tha hoá con người. Và triết học Mác- Lê Nin đã chỉ ra cho nhân loại
con đường thực hiện giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá, khỏi mọi bất
công và áp bức, phát triển toàn diện con người . Điều đó phù hợp với mong
muốn của nhân dân lao động và với mong muốn của cả loài người tiến bộ. Lý
luận Mác- Lê Nin vì vậy đã là kim chỉ nam cho các dân tộc bị áp bức trên con
đường phát triển của mình.
Từ sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
nhiều người nghi ngờ về một chế độ xã hội tốt đẹp mà học thuyết Mác đã chỉ ra.
Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ, do những yếu tố chủ quan và điều kiện
khách quan khác nhau, hiện tượng quan liêu, tha hoá của bộ máy nhà nước đã là

tình trạng quan liêu, tha hoá trong một bộ phận của bộ máy Đảng và Nhà nước
3.Những vấn đề thực tiễn trên thế giới và Việt Nam trên đây, đòi hỏi
chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của các nhà kinh điển Mác xít,
đặc biệt những tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn của C.Mác và
Ph. Ăng Ghen để khẳng định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Đồng thời quan điểm của các nhà kinh
điển Mác- Lê Nin sẽ tiếp tục soi sáng để chúng ta nhận thức và giải quyết những
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển con người Việt Nam . Chính
vì vậy việc nhận thức và nhận thức lại tư tưởng của C.Mác vàPh. Ăng Ghen một
cách sâu sắclà vấn đề không bao giờ trở thành vấn đề đã song, đã cũ. Mà đó là
vấn đề đã đang và sẽ còn cần đuợc tiếp tục nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do
đó, chúng tôi chọn đề tài “ Quan niệm của C.Mác về tha hoá, giải phóng con
người và ý nghĩa của nó đối với phát triển con người Việt Nam hiện nay”
PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG1.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA C.MÁC
VỀ THA HOÁ
1.QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VỀ THA
HOÁ(TỪ 1843 ĐẾN THỜI KỲ XUẤT BẢN “TƯ BẢN”).
Vấn đề về sự tha hoá đã được Mác quan tâm từ rất sớm, ngay từ những
tác phẩm thời kỳ Mác chưa chuyển sang lập trường của chủ nghĩa duy vật ông
đã đề cập đến những hình thức biểu hiện khác nhau của hiện tượng tha hoá. Tư
tưởng về tha hoá của Mác được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển của chủ
nghĩa Mác.
1.1.Thời kỳ trước năm 1844
Tư tưởng về tha hoá của Mác xuất hiện từ rất sớm ngay trong những bài
báo và tác phẩm ở thời kỳ trước năm 1844- thời kỳ ông chưa chuyển hẳn sang
lập trường của chủ nghĩa duy vật. Trên tờ “ Báo mới vùng Ranh” và “Những
cuộc tranh luận về luật cấm trộm gỗ rừng”, Mác đề cập đến thái độ bái vật giáo
của con người đối với các quan hệ kinh tế hiện thực và đến tính chất bái vật giáo
của tiền tệ. Tiếp theo trong tờ “Niên giám Pháp- Đức”, Mác tiến gần đến tư

về xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước( với tư cách bộ máy bạo lực)
của Mác sau này.
Tác phẩm này là sự mở đường cho việc xem xét tha hoá chính trị như là
kết quả của các quá trình kinh tế.
Kết luận: Trong những tác phẩm thời kỳ trước năm 1844, khái niệm tha
hoá đã được Mác phác thảo khá rõ nét, các thứ bậc của tha hoá cũng đã được
ông khảo sát, theo đó tư tưởng của Mác về tha hoá đi theo thời gian cùng với sự
chuyển biến lập trường thế giới quan của ông, từ tha hoá tôn giáo đến tha hoá xã
hội chính trị. Những nghiên cứu của Mác ở giai đoạn này mới chỉ là bắt đầu, nó
là tiền đề cho việc đi sâu nghiên cứu nền tảng của mọi dạng tha hoá - tha hoá
kinh tế ở giai đoạn sau năm 1844.
1.3.2. Thời kỳ những năm 1844-1848:
Thời kỳ này đánh dấu việc hình thành những quan niệm duy vật lịch sử
của Mác. Sự chuyển biến đó tiếp tục đưa Mác đến việc luận giải nền tảng của
tha hoá tư tưởng và tha hoá chính trị- xã hội là tha hoá kinh tế và những tiền đề
cho xoá bỏ tha hoá. Khái niệm và nội dung quan niệm tha hoá được Mác phân
tích khá rõ ràng trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844”, nhưng
trước đó những tư tưởng về tha hoá lao động đã được ông khảo cứu trong cuốn “
Tóm tắt quyển sách của Giêm-Xơmin “những nguyên lý của khoa kinh tế chính
trị học”. Trong đó tha hoá được thể hiện dưới hình thái của sự sùng bái tiền tệ “
sự sùng bái vị thần đó trở thành mục đích tự thân”. Đồng thời Mác cũng phê
phán quan niệm của các nhà kinh tế học tư sản khi coi sự phát triển của hệ thống
tín dụng, hệ thống ngân hàng là những nấc thang khắc phục sự tách rời của con
người với vật, của tư bản với lao động, của sở hữu tư nhân với tiền tệ, của tiền tệ
với con người, của con người với con người Mác cho rằng đó chỉ là vẻ bề
ngoài của sự khắc phục tha hoá, mà “ đó càng là sự tha hoá, sự phi nhân hoá hèn
hạ hơn và cực đoan hơn”. Ở đây Mác đã đi đến tư tưởng về mối quan hệ giữa
tha hoá và sở hữu tư nhân. Tư tưởng đó tiếp tục được ông luận giải sâu sắc hơn
trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế triết học 1844”.
-Tác phẩm” Bản thảo kinh tế triết học 1844” có ý nghĩa lớn đối với sự

khái niệm cặp đôi, một khái niệm thể hiện mặt chính diện của bản chất con
người, còn một khái niệm thể hiện mặt phản diện của bản chất con người. Thông
qua việc sử dụng hai khái niệm này, Mác thể hiện tiến trình phát triển chung của
lịch sử nhân loại với tư cách là sự vận động của bản chất tộc loại thông qua tha
hoá và lột bỏ tha hoá.
Trong tác phẩm “ Bản thảo kinh tế triết học 1844”, Mác khi phân tích
khái niệm lao động tha hoá đã thực hiện sự phê phán quan niệm của kinh tế
chính trị học tư sản, của phép biện chứng Hê Ghen và quan niệm tha hoá của
Phoiơbắc.
Hệ vấn đề tha hoá, đối tượng hoá và vật hoá trong tác phẩm này đã được
Mác chú ý đến. Vật hoá có nghĩa là hoạt động của chủ thể, tức là hoạt động sản
xuất vật chất của loài người, lại bị coi là một sản phẩm hoặc một đối tượng nào
đó. Lao động sản xuất là hoạt động cơ bản, quan trọng hàng đầu của loài người
vì sự sinh tồn của mình, do đó là hiện tượng mà bất cứ xã hội nào cũng có.
Trong quá trình lao động con người đã thực hiện sự đối tượng hoá hoạt động của
mình. Còn tha hoá là sản phẩm sản sinh ra trong những điều kiện nhất định, là
sản phẩm của chế độ tư hữu, trong đó người lao động bị chính sản phẩm lao
động của mình, bị chính hoạt động của mình nô dịch.
-Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”(1845). Mác và Ăng Ghen vẫn duy trì
quan niệm về tha hoá như là một trong “những nhân tố chủ yếu của lịch sử nhân
loại”. ở đây các nhà kinh điển Mác xít vẫn tiếp tục quan niệm tha hoá đã được
đưa ra trong “ Bản thảo kinh tế triết học1844”. Tuy nhiên từ tác phẩm này “tha
hoá” không còn được Mác dùng như một khái niệm phản tư mà đã chuyển sang
ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Quan niệm về tha hoá gắn liền với những
quan niệm duy vật lịch sử. Mác đã hiện thực hoá cách tiếp cận việc giải quyết cơ
chế các quá trình bị tha hoá. Mác vạch ra cội rễ sâu xa của tha hoá là sự phân
công lao động tiền tư bản, thậm chí tiền phân chia giai cấp. Tha hoá lao động có
cội nguồn từ sự phân công lao động đã được Mác phác thảo trong “Bản thảo
kinh tế triết học1844”, đến tác phẩm này ông đi sâu phân tích mối quan hệ giữa
phân công lao động có tính chất đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa với sở

hoá hiện đại sinh ra và phát triển như vậy.
Trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”, tha hoá được khái quát là sự đối lập,
xa lạ của những lực lượng xã hội với con người, những lực lượng ở bên ngoài
mà con người không thể chế ngự được, những lực lượng chẳng những độc lập
với ý chí và hành động của con người mà còn điều khiển ý chí và hành động ấy.
-Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848), đây là tác phẩm được
coi là bước đệm chính trị cho “Tư bản”, “vì ở đó Mác và Ăng Ghen đã triển khai
sự phê phán khoa học đối với chủ nghĩa tư bản, sự phê phán được tiến hành
phần nhiều nhờ các hình tượng tha hoá”[41,371]. Mác và Ăng Ghen trong tác
phẩm này đã không quên nhấn mạnh tính chất tiến bộ của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tư bản đã đưa nhân loại tiến lên một bước lớn lao so với tất cả các phương
thức sản xuất trước đó. Tuy nhiên nó đã không loại bỏ được những tha hoá xã
hội. Nó đã làm đậm nét những sự tha hoá đó bằng cách tăng cường bóc lột lao
động và gia tăng sự bần cùng hoá các giai cấp lao động bằng cách hạ thấp các
điều kiện sinh hoạt của các tầng lớp nghèo khổ. Và bị tước đoạt trong giai cấp tư
sản. Những sự tha hoá dồn chất lên cả về thể xác và tinh thần. Các ông đã vạch
trần bản chất của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, làm cho phẩm giá con
người trở thành giá trị trao đổi, mọi quan hệ giữa con người đều tan biến đi
trước “ lợi ích lạnh lùng”, trước những đòi hỏi cứng rắn “ thanh toán sòng
phẳng”, bằng cách nhấn chìm mọi tình cảm “ tronglàn nước băng giá của sự tính
toán ích kỷ”. Cũng trong tác phẩm này Mác và Ăng Ghen đã tiến hành phê phán
chính trị đối với ý thức bị tha hoá của các nhà tư tưởng tư sản. Tha hoá là hiện
tượng phổ biến trong xã hội, nó không chừa một ai. Nhà tư bản lại chính là nạn
nhân đầu tiên của nó: anh ta không thể tự giải phóng mình. Người giải phóng là
nô lệ chứ không phải là ông chủ.
Kết luận: Các tác phẩm của Mác và Ăng Ghen vào thời kỳ thứ hai của quá
trình hình thành chủ nghĩa Mác( 1844-1848) là những nấc thang cho cách hiểu
về phạm trù tha hoá của Mác. Tư tưởng của các ông trong những tác phẩm này
là tiền đề triết học cho quan niệm của Mác về tha hoá trong “ Tư bản”.
1.3.3.Thời kỳ hình thành và xuất bản bộ “Tư bản”-Sự hoàn thiện quan

thể diễn ra khi xuất hiện nền sản xuất hàng hoá. Sau đó sự tách rời ấy có hình
thức của sự tách rời giá trị khỏi giá trị sử dụng, và tiếp theo hình thức ấy phát
triển thành mâu thuẫn giữa các hình thái giá trị, cho đến khi cuối cùng phải xuất
hiện sự tha hoá thông qua việc tiền tệ tách khỏi hàng hoá.
-Nếu ở Bản thảo kinh tế- triết học 1844, Mác mới chỉ dừng ở việc mô tả
kết quả của tha hoá lao động biểu hiện ở đối lập xa lạ, sự nô dịch của sản phẩm
lao động, của hoạt động lao động đối với người lao động thì đến Tư bản, với
những nghiên cứu kinh tế chính trị học, Mác vạch ra cội nguồn, cơ chế của sự
tha hoá đó như thế nào. Xuất phát từ tính chất hai mặt của lao động sản xuất ra
hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá, Mác đã phân tích khá chi tiết sự biểu
hiện của hình thái giá trị của hàng hoá. Từ đó, Mác chỉ ra tính chất bái vật giáo
của hàng hoá và toàn bộ bí mật của nó. Theo đó bái vật giáo là hiện tượng gắn
liền với nền sản xuất hàng hoá, xuất hiện từ rất sớm trước khi xuất hiện nền sản
xuất hàng hoá phát triển hoàn thiện nhất- nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Theo đó thì tính chất bái vật giáo hàng hoá là do tính chất của chính hình
thái hàng hoá tạo nên. Tính chất thần bí của hàng hoá không phải do giá trị sử
dụng của nó quy định mà chính là ở hình thái giá trị của hàng hoá. Gía trị của
một sản phẩm hàng hoá là do lao động trừu tượng của người lao động tạo nên,
nó là lao động xã hội của con người kết tinh trong hàng hoá. Tuy nhiên “ tính
bình đẳng của các loại lao động khác nhau của con người lại mạng hình thái vật
có tính vật thể giống nhau của giá trị của những sản phẩm lao động.Thước đo
các chi phí về sức lao động của con người bằng độ dài của các chi phí ấy lại
mang hình thái đại lượng giá trị của các sản phẩm lao động; cuối cùng những
mối quan hệ của những người sản xuất trong đó những tính quy định xã hội của
lao động của họ được thực hiện, lại mang hình thái một quan hệ xã hội giữa các
sản phẩm lao động” [34,115].
Thực chất đối với hàng hoá, quan hệ giá trị giữa những sản phẩm lao động
được biểu hiện ra chỉ là một quan hệ xã hội nhất định của con người, nhưng
dưới con mắt của họ thì quan hệ ấy lại mạng cái hình thái kỳ ảo của mối quan hệ
giữa các vật. Mác ví tính chất bái vật giáo hàng hoá cũng giống như lĩnh vực tôn

thành hiện thực.
Kết quả lịch sử của mọi sự phát triển tư bản chủ nghĩa là sự phục tùng
ngày càng phổ biến của lao động đối với tư bản, tư bản chỉ có một động cơ duy
nhất là tìm kiếm lợi nhuận, điều này càng làm cho con người cá nhân bị tha hoá
về mặt kinh tế. Tất cả các hình thức tha hoá khác đều từ đó mà ra Sự phục tùng
đối với quy luật của lợi nhuận, tiền tệ cho vay lãi và tín dụng, trở thành phổ
biến.
Hai hình thức tha hoá này theo Mác có cội nguồn từ sự bóc lột của nhà tư
bản với lao động dưới hai hình thức: một mặt là sự kéo dài ngày lao động và mặt
khác là sự tăng cường độ lao động.
-Những nghiên cứu của Mác về tha hoá gắn liền với ý đồ của Mác trong
“Tư bản” là phân tích toàn diện hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, từ đó chỉ rõ
bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Hiện
tượng tha hoá trong xã hội tư bản chủ nghĩa gắn liền với hiện tượng bóc lột.
Nguyên nhân chính của sự phát triển tha hoá ở đây là sự tăng cường bóc lột giai
cấp công nhân của nhà tư bản. Những luận chứng về mặt kinh tế phạm trù tha
hoá lao động trong Tư bản của Mác trở thành học thuyết về tha hoá những người
bị áp bức, bóc lột, vì vậy đã là cơ sở kinh tế luận chứng cho học thuyết của ông
về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng loài người khỏi mọi áp bức bất công và
mọi sự tha hoá.
Kết luận: Sự hình thành, phát triển quan niệm của Mác về tha hoá gắn liền
với những nghiên cứu của Mác trên lĩnh vực triết học, chủ nghĩa xã hội khoa
học và kinh tế chính trị học. Có thể nói hệ vấn đề về tha hoá là biểu hiện tập
trung nhất sự thống nhất của ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mác, nó là sự
luận giải sinh động cho vấn đề con người vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích
cuối cùng của học thuyết Mác.
1.3.Tính hai mặt của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa- cơ sở thực tiễn cho
nghiên cứu của C.Mác về tha hoá
1.2.1. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra những tiền đề cho sự phát triển
con người đồng thời làm tha hoá con người

Tóm lại: C.Mác nhấn mạnh những mặt tiêu cực của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa như thế nào, thì ông cũng chứng minh một cách rõ ràng như thế rằng
hình thái đó là cần thiết để phát triển các lực lượng sản xuất của xã hội tới một
trình độ cao đến mức nó sẽ làm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội có thể đạt
tới một sự phát triển ngang nhau, một sự phát triển xứng đáng với con người.
*Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm con người phát triển phiến diện và bị
tha hoá.
-Trước hết là tác động tiêu cực của tiến bộ kỹ thuật đối với sự phát triển
con người. Việc sử dung máy móc trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho
con người bị kiệt quệ, con người trở thành lệ thuộc vào máy móc, sự lệ thuộc đó
làm cho lao động trở thành cực hình đối với người lao động.
-Sự phân công lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa làm cho người lao
động bị phát triển phiến diện, họ bị biến thành “ một bộ phận phụ tùng của cái
máy”. Người lao động phát triển không cân đối cả về thể lực và trí lực, làm mất
đi năng khiếu và bẩm sinh sáng tạo của họ.
- Việc sử dụng máy móc trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã “cướp giật” nốt
các phần hoạt động độc lập của người lao động làm cho họ không còn thời gian
để phát triển nhân cách cũng như phát triển thể chất, họ chỉ còn giống như cái
máy.
-Những tác động tiêu cực của các thành tựu kỹ thuật đối với con người là
biểu hiện của lao động bị tha hoá. Sự tha hoá đó là kết quả của sự phân công lao
động có tính chất đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
-Sự tha hoá lao động dẫn đến sự tha hoá con người, nó biến người lao
động thành những con người cùng khổ, biến giai cấp tư sản và các tầng lớp khác
trở thành những cá nhân ích kỷ hẹp hòi., tìm cách khống chế đánh bại lẫn nhau
vì lợi ích riêng của mình. Trong xã hội tư bản không phải chỉ có người công
nhân mà cả giai cấp tư sản và các tầng lớp khác cũng bị tha hoá.
1.2.2. Nguyên nhân của tha hoá
+Nguyên nhân của sự tha hoá :- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là
nguyên nhân của tha hoá lao động- nền tảng của tha hoá chính trị-xã hội và tha

tích của ông về bản chất và những hình thức biểu hiện của tha hoá dưới đây.
CHƯƠNG2. QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ CÁC HÌNH THỨC THA
HOÁ VÀ VẤN ĐỀ KHẮC PHỤC THA HOÁ, PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI.
2.1.Quan niệm của C.Mác về các hình thức tha hoá
1.2.1.Tha hoá tôn giáo và tha hoá xã hội- chính trị
*Tha hoá tôn giáo- biểu hiện của tha hoá ý thức,tư tưởng: C.Mác nghiên cứu
về tha hoá tôn giáo khi ông còn ở phái Hê Ghen trẻ., do việc ông chịu ảnh hưởng
của tư tưởng của Phoi-ơ-bắc về đấu tranh chống sự tha hoá tôn giáo. Mặt khác,
đây là vấn đề lớn của thời đại lúc đó, C.Mác cũng không thể không say mê với
các vấn đề của thời đại ông và của phái Hê Ghen trẻ. Sự phê phán tôn giáo dẫn
đến luận điểm: Không phải chúa trời đã tạo ra con người mà con người tạo ra
chúa dựa theo hình ảnh của mình. Chúa trời- một thực thể siêu nhiên, chính là
biểu tượng tôn giáo do con người sáng tạo ra, là sự tuyệt đối hoá những đặc
điểm và những tính chất của con người dưới một hình thức lý tưởng hoá, nghĩa
là dưới hình thức một điển hình lý tưởng.Như vậy tha hoá tôn giáo biểu hiện con
người đã tự làm mình nghèo đi, bởi vì con người đã tước bỏ những đặc điểm
riêng của mình để chiếu hình của chúng vào trí tuệ mình. Sản phẩm đó mang
hình thức một tín ngưỡng xã hội, nó tự “trí hoá” sự tồn tại của nó đối với chính
kẻ sáng tạo ra nó, biểu hiện ra với con người như một lực lượng xa lạ, nhiều khi
đối địch và bắt đầu thống trị con người. Một khi đã được tạo ra và được khách
quan hoá để mang tính xã hội, những tín ngưỡng tôn giáo trở nên không những
xa lạ với con người, nhiều khi đối địch và bắt đầu thống trị con người.
Nội dung nhân đạo của việc chống tha hoá tôn giáo cũng được trình bày
rõ ràng ở Ăng Ghen, điều này cho thấy sự tương đồng trong tư tưởng của hai
ông ngay khi còn trẻ.
*Tha hoá xã hội-chính trị:
+Quan niệm của C.Mác về sự tha hoá này xuất phát từ chính quan niệm
của ông về sự “rạn nứt” nội tại diễn ra trong con người xuất hiện trong hai vai
trò, nhưng dưới một hình thức duy nhất và như nhau: như thành viên của “tổ
chức công dân” và như thành viên của “tổ chức nhà nước”. Trong tổ chức thứ

tư bản gắn liền với quan điểm về việc xoá bỏ nhà nước tư sản- xoá bỏ sự thjống
trị chính trị, đồng thời gắn liền với sự “tiêu vong” của nhà nước trong chủ nghĩa
xã hội.
2.1.2.Tha hoá lao động- biểu hiện tập trung của tha hoá kinh tế:
Khi lý giải về sự tha hoá nhà nước, Mác nhìn thấy mối liên hệ giữa nhà
nước và xã hội công dân. Theo ông không phải nhà nước chi phối xã hội mà trái
lại chính xã hội công dân chi phối nhà nước.Quan niệm duy vât đó hướng Mác
tới nền kinh tế: nền tảng của sự tha hoá trong xã hội tư bản là sự tha hoá kinh tế.
Chính tha hoá kinh tế là cơ sở của tha hoá xã hôi-chính trị, chính nó quy định sự
tha hoá ý thức tư tưởng. Trong tha hoá kinh tế Mác tập trung lý giải nhân tố cơ
bản nhất của nó là lao động. Mác đưa ra quan niệm của mình về tha hoá lao
động trên những bình diện sau:
2.1.2.1. Sự tha hoá của người công nhân đối với sản phẩm lao động của
mình.
-Sự tha hoá thể hiện ở chỗ, người công nhân quan hệ với sản phẩm lao
động của mình như một vật xa lạ. Sản phẩm lao động đứng đối lập với lao động
như một tồn tại xa lạ, như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất
-Sự tha hoá biểu hiện ở sự thống trị của sản phẩm lao động đối với người
sản xuất. Từ chỗ là chủ thể của sản phẩm lao động, con người trở thành phụ
thuộc vào sản phẩm, phục tùng các quy luật riêng của nó, thậm chí uy hiếp sự
tồn tại của con người.
2.1.2.2.Tha hoá của người công nhân biểu hiện trong hành vi lao động
của mình.
-Với quan niệm coi lao động là bản chất của con người, lao động của con
người là lao động sáng tạo, Mác cho rằng trong điều kiện của xã hội tư bản chủ
nghĩa, lao động vốn là hoạt động bản chất của con người đã không ở trong con
người mà là cái ở bên ngoài người lao động. Lao động trở thành gánh nặng đè
lên thể xác và cả tinh thần của người lao động, làm cho họ kiệt quệ, què quặt.
-Lao động không còn là nhu cầu, là bản chất con người mà trở thành một
lực lượng xa lạ, đối lập và nô dịch con người, nó chỉ còn là phương tiện để thoả

biến cái vốn có của con người thành cái bị tách khỏi con người, đứng đối lập với
con người như một cái xa lạ. Đồng thời sự tha hoá lao động cũng dẫn tới tha hoá
của mỗi người với người khác.
Kết luận: Tha hoá là hiện tượng phổ biến trong xã hội tư bản, nó là một
quá trình khách quan và biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mác đã đi từ quan hệ trực tiếp của lao động với sản phẩm của nó, tức là của
người công nhân với sản phẩm của mình để tìm ra bản chất của lao động bị tha
hoá. Sự luận giải của Mác về lao động tha hoá- biểu hiện tập trung của tha hoá
kinh tế, xem là nền tảng của tha hoá xã hội-chính trị và tha hoá tư tưởng.
2.2. Quan niệm của C.Mác về tồn tại người và con đường khắc phục
tha hoá,phát triển toàn diện con người.
2.2.1. Quan niệm của C.Mác về tồn tại người- cơ sở lý luận để đặt ra vấn
đề giải phóng con người
-C.Mác đứng trên lập trường duy vật phê phán quan niệm duy tâm của Hê
Ghen và quan niệm siêu hình của Phoi-ơ-bắc về con người và khẳng định tiền đề
xuất phát trong việc nghiên cứu con người đó là những “tiền đề hiện thực”. Vì
vậy con người mà ông đề cập đến là những con người hiện thực “ con người
không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con
người chính là thế giới con người, là nhà nước là xã hội” [20,569].
-Khi xuất phát từ tồn tại hiện thực của con người, C.Mác cho rằng tồn tại
người trước hết là tồn tại của những cá nhân con người sống “ những cá nhân
mang tính kinh nghiệm, có thể xác”. Với tư cách là “cá nhân con người sống”,
con người trước hết có mối quan hệ với tự nhiên. Con người muốn tồn tại phải
ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp với tự nhiên, bởi vì “ con người là
một bộ phận của giới tự nhiên”
-Sự tồn tại của con người là sự tồn tại mang tính chất tự nhiên, vật chất-
cảm tính, Mác khẳng định con người là thực thể tự nhiên đặc thù, “ một thực thể
tự nhiên sống”. Vì vậy một mặt con người được phú cho những “lực lượng tự
nhiên”, những lực lượng tồn tại dưới hình thức thiên bẩm và năng lực, mặt khác
là một thực thể tự nhiên con người chịu sự quy định của giới tự nhiên bên ngoài.

-Chính hoạt động lao động của con người cải biến gioí tự nhiên là cái để
phân biệt sự khác nhau giữa con người với con vật “ loài vật chỉ lợi dụng giới tự
nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đơn thuần do
sự có mặt của nó thôi, còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó, mà bắt
giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự nhiên.
Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người và các loài vật


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status