FDI và vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế Việt Nam - Pdf 27

Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn kiện đại hội đảng IX của Đảng đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là
một thành phần kinh tế, là bộ phận cấu thành của nền kinh tế nhiều thành phần ở VIệt
Nam, được khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm và đề ra
nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư
nước ngoài.
Đây là bước phát triển mới về quan điểm, nhận thức của Đảng ta so với các
đại hội trước về vai trò vị trí của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đối với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, thể hiện chủ trương nhất quán của Đảng ta là
phát huy nội lực động thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh
tế thế giới để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, kết hợp chặt chẽ giữa nội
lực và ngoại lực để tạo thành nguồn lực tổng hợp cho công cuộc đổi mới và phát triển
của đất nước.
Và thực tế ngày nay đã chứng minh rằng FDI trở thành một tất yếu kinh tế
trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào dù lớn
hay nhỏ dù phát triển theo con đường TBCN hay XHCN lại không cần đến nguồn
vốn FDI và tất cả đều coi là một nguồn lực quan trọng cần khai thác để từng bước
hòa nhập với cộng đồng quốc tế. ngay cả quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ,
Nhật Bản dưới tác động của cuộc cách mạng XHCN hiện nay cũng không tự mình
giải quyết các vấn đè kinh tế xã hội đã, đang và tiếp tục đặt ra. Đặc biệt là Việt Nam,
Việt nam đi lên từ đống tro tàn của chiến tranh, nền kinh tế thấp kém lạc hậu. đến nay
ta từng bước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa đẩy nhanh công cuộc công nghiệp
hóa và hiện đại hóa. Việt Nam cần phải có một nguồn vốn lớn và FDI là một lựa
chọn hợp lý hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết giúp kinh tế ViệtNam nhanh chóng
thoát khỏi lạc hậu tiến lên vững mạnh.
Chính vì lý do đó việc tìm hiểu FDI trở nên rất quan trọng đặc biệt là đối với
sinh viên kinh tế những người đang và sẽ trực tiếp gánh vác trọng trách xây dựng
kinh tế nước nhà trở nên một nền kinh tế giàu mạnh. Nội dung trong bài tiểu luận sẽ
làm rõ những vấn đề cơ bản nhất về FDI và vai trò của nó trong việc phát triển kinh

tượng cho vay như sau:
+ Tài trợ phát triển chính thức (Offocial Development Finance ODF). Nguồn
vốn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (Official Dvelopment Assostonce-
ODA) và các hình thức ODP khác. Trong loại này có viện trợ song và đa phương.
ODA chiếm tử trọng chủ yếu trong ODF.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
+ Đầu tư nước ngoài trực tiếp ( Foregin Direct Invertment FDI ), viện trợ cho
không của các tổ chức phi chính phủ (NGOS) và một số nguồn tài trợ tư nhân khác.
c).Tìm hiểu sâu hơn về lịch sử của FDI:
Các nghiên cứu về FDI đã được tiến hành sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
vào thập kỷ 60, 70 của thế kỷ XX. Từ thập kỉ 1980 trở đi do thế giới đã diễn ra những
làn sóng FDI, nên có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này với những lý
thuyết và quan điểm khác nhau. ở đây chúng tôi trình bày quan điểm chính thống của
hai tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với FDI là tổ chức hợp tác kinh tế và
phát triển – OECD và Tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển –
UNCTAD.
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của UNCTAD thì “ FDI là hoạt động
đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của
một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ
nước ngoài) đối với một doanh nhiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh
tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi
nhánh nước ngoài)”.
Định nghĩa này có hai đặc trưng là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế. Về
quyền kiểm soát, hầu như đã đạt được sự nhất trí của các nhà nghiên cứu về FDI; về
lợi ích khống chế còn đang có những ý kiến khác nhau, nhưng hiện nay nhiều người
đã thừa nhận rằng một công ty nước ngoài có tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu 10% thì
có ảnh hưởng nhất định đến quyền kiểm soát doanh nghiệp, tác động đến chiến lược
kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.

tư nước ngoài.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam xác định: đầu tư trực tiếp nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào
để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Các tài sản này có thể là thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng
hoặc giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kĩ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ
kỹ thuật. Khái niệm nêu trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu đề cập
đến xuất xứ của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không đề cập trực tiếp hai
vấn đề cốt lõi của FDI là quyền kiểm soát và lợi ích khống chế.
Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ xác định: đầu tư nước ngoài là mọi
hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty của bên kia
sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, thực hiện dưới các hình thức như một
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công ty hay một doanh nghiệp; cổ phần cổ phiếu và hình thức góp vốn khác, trái
phiếu, giấy ghi nợ, các quyền theo hợp đồng, tài sản hữu tình và tài sản vô tình,
quyền sở hữu trí tuệ…Khái niệm này gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, mà
không phân biệt sự khác nhau giữa hai loại đó.
2.Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn:
a).Đặc trưng của FDI:
- Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia.
FDI làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước nhận đầu tư, làm giảm
lượng tiền và tài sản của nước đi đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu…), tài sản vô hình (sáng chế, nhãn
hiêụ, bí quyết kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý). FDI không chỉ di chuyển
vốn thuần túy, mà còn bao gồm chuyển giao công nghệ, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu
của nhà đầu tư về các đối tượng sở hữu.
- Thứ hai, FDI được tiến hành thông qua thành lập các doanh nghiệp mới,
mua lại các chi nhánh, doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất
và chuyển nhượng doanh nghiệp.

cam kết và rằng buộc chặt chẽ giữa các nước viện trợ và nước nhận viện trợ, chịu sự
chi phối đáng kể bởi quan hệ chính trị giữa hai nước.
Khi đó, FDI ít có khả năng xảy ra tình trạng này vì chủ yếu là đầu tư do doanh
nghiệp tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư và kinh doanh, được tính
toán kỹ trước khi quyết định đầu tư. Đồng thời, hoạt động FDI khác với vay tín dụng
thương mại theo lãi suất thị trường với những cam kết và thế chấp hết sức nghiêm
ngặt.
- Thứ năm, FDI bảo đảm cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia kiểm
soát, điều hành quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc điều hành và trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để nhà đầu tư
thực hiện được chiến lựơc kinh doanh của họ một cách chủ động và tối ưu. Tuy
nhiên, trên thực tế thường nảy sinh khoảng lệch giữa mục tiêu thu hút vốn đầu tư của
chính phủ với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư, vì trong một số trường hợp, mục
tiêu của chính phủ không phù hợp với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư.
Đặc trưng này đòi hỏi chính phủ tiếp nhận đầu tư chủ động quy hoạch phát
triển các ngành, các vùng và có các chính sách hấp dẫn phù hợp với từng ngành, lĩnh
vực để thu hút FDI.
- Thứ sáu, đầu tư nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia thực
hiện.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước ngoài, có
tiềm lực lớn về vốn, công nghệ các nhãn hiệu sản phẩm có uy tín có danh tiếng lớn
trên toàn cầu, tính năng động cao, đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả
năng điều hành các hoạt động sản xuất phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh
tranh cao. Các nước đang phát triển và các doanh nghiệp của họ có thể tiếp cận từ các
công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thu hút nguồn vốn
lớn, công nghệ nguồn, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, cải thiện
năng lực cạnh tranh và năng động hóa các quan hệ giao dịch. Bên nước tiếp nhận
ngoài mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài còn có mục tiêu tiếp nhận

đi trước xét về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản đối với các nước tiếp cận vốn
trong đó có Việt Nam.
Thứ ba: Lợi ích về vốn và ngoại tệ. Lợi ích này dưới dạng tổng quát hơn,
chính là lợi ích tăng trưởng của đất nước. Xét riêng về vốn, ngoại tệ, nguồn lực huy
động từ bên ngoài có những tác dụng căn bản sau:
- Rút ngắn thời gian tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước.
- Tạo ra những cơ sở xuất khẩu cho đất nước trong tương lai.
- Thu một phần lợi nhuận của các công ty nước ngoài.
- Thu ngoại tệ từ các hoạt động du lịch, dịch vụ,…
c).Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của FDI đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta có thể xem xét dưới những góc độ sau:
-Thứ nhất,FDI tạo ra cơ hội cũng như thách thức với sự phát triển bền vững.
Ngày nay, phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của các quốc gia
trên toàn thế giới. Phát triển bền vững được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế đi liền với
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiên tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường”.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên và có lực lượng lao
động đồi dào, song các yếu tố về vốn, trình độ cũng như tay nghề của lực lượng lao
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động còn rất nhiều hạn chế, khoa học - công nghệ đã tụt hậu khá xa so với các nước
phát triển. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của việc

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thay đổi cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tích cực và nâng cao trình độ công nghệ
chung của các ngành kinh tế.
-Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cho Việt Nam chủ động hội nhập với các nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Khu vực hóa và toàn cầu hóa là những xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế
đều bị cuốn hút vào. Tuy nhiên, tùy thuộc và trình độ phát triển kinh tế và các nhân tố
khác mà mỗi nước có chủ trương riêng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tác
động đến tiến trình đó. Với chủ trương Việt Nam là bạn đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực,
Việt Nam đã tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với khu
vực thông qua việc gia nhập ASEAN, thực hiện AFTA và hướng tới xây dựng cộng
động ASEAN-AC; đồng thời mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các tổ
chức quốc tế, tổ chức hợp tác khu vực, các quốc gia, chủ yếu và thương mại và đầu
tư. Đặc biệt Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO vào tháng 01/2007. Việc phát triển khu vực kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài đảm bảo cho hội nhập kinh tế đạt hiệu quả cao. Thông qua
FDI, các Công ty nước ngoài, nhất là các chi nhánh của Công ty xuyên quốc gia có
mặt tại Việt Nam đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, mở rộng xuất khẩu, nâng cao
năng lực tiếp cận thị trường và năng lực cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường thế giới.
-Thứ ba, đầu tư nước ngoài tạo ra những điều kiện thuận lợi và thách thức
đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Nền kinh tế độc lập tự chủ được hiểu là nền kinh tế có trình độ phát triển đủ
điều kiện không bị lệ thuộc vào nước khác. Thực tiễn cho thấy, muốn giữ được độc
lập tự chủ nhất thiết phải có hai điều kiện: Có đường lối, chính sách phù hợp với điều
kiện cụ thể của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa và có thực lực kinh tế đủ mạnh.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không có nghĩa là đối lập với vấn đề hội
nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là tạo thêm nguồn lực,

nước ngoài thì các nước đang phát triển có cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật
của nước ngoài để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy quốc gia nào biết thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo ra bộ mặt phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế.
Ngoài những đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển Việt Nam còn
có những nét đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh
ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề lại vấp phải những sai lầm
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩ mô và vi mô, nên đã rơi vào
khủng hoảng nghiệm trọng. Một nền kinh tế què quặt, nghèo nàn, lạc hậu: Đời sống
của đại đa số nhân dân khó khăn thiếu thốn là gánh nặng không thể vượt qua được.
Sau khi vượt qua được khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai
đoạn ổn định và phát triển (từ năm 1991-2000).Cũng lại nhờ vào nguồn lực bên
ngoài, thông qua vay nợ, viện trợ và hợp tác đầu tư ( trong thời kỳ 1991-1995-vốn
FDI là 4,205 tỷ USD, so với 15,695 tỷ USD tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế, vốn
FDI chiếm 26,8%), cùng với khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực
trong nước chúng ta đã tạo ra được một bước phát triển đầu tiên khá vững chắc.Tốc
độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này là 8,2% và nhờ có sự tăng trưởng kinh tế mà
đã tăng được tỷ lệ tích lũy lên gần 20% GDP vào năm 1995. Thực tiễn trên đây là kết
quả của những thay đổi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta về đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại, vì vậy nó bị chi phối
trước hết bởi đường lối phát triển kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại
nói riêng.
Sự thay đổi tư duy kinh tế đối ngoại ở Việt Nam chủ yếu nảy sinh từ tình hình
thực tiễn mới diễn ra từ những năm 80 gắn liền với quá trình đổi mới tư duy kinh tế
nói chung. Điểm mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi này là năm 1986, năm diễn ra
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6, Đại hội của đường lối đổi mới toàn diện
đời sống kinh tế xã hội.

trong nước, cũng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để khai có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài.
3.Đánh giá chung:
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận vốn phát triển từ nước
ngoài là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Dù những gì có khả
năng gây ra bất lợi (xét thuần túy liên quan đến kinh tế) thì đây vẫn là một xu hướng
khách quan, một sự lựa chọn cho phép các nước nghèo thoát khỏi tình trạng lạc hậu,
để gia nhập nhanh hơn vào quỹ đạo phát triển hiện đại (Vốn nước ngoài và chiến
lược phát triển kinh tế ở Việt Nam- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Lê Văn Châu).
II.THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ CÓ VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay:
a)Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là một nguyên nhân quan trọng trong gia tăng và phân hóa thu
nhập của các nhóm dân cư ở các vùng. Khi phân tích khả năng đầu tư của từng vùng
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, các nhà kinh tế đều thừa nhận những
vùng kinh tế phát triển mạnh là vùng thu hút đầu tư cao nhất. Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam là một minh chứng cho nhận định trên. Không ai có thể phủ nhận vai
trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những nước tăng trưởng
kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn vốn như nước ta.
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
FDI/GDP 14% 15% 17.7% 24.3% 24.3% 27.1% 28.1% 28.3%
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
FDI/GDP 29% 27.6% 29.6% 31.1% 32.1% 33.7% 35.3% 35.5%
Bảng1:Tỉ lệ vốn FDI/GDP đơn vị phần trăm (nguồn tổng cục thống kê)
Theo cục đầu tư nước ngoài, dự kiến vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn
2006 đến 2010 khoảng 25 tỷ USD. Đây là một con số dự đoán theo hướng thận trọng.
Một số nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam và thế giới còn cho rằng con số này khả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status