THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NQD Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - Pdf 75

THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NQD Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái quát về hoạt động của khu vực kinh tế NQD:
2.1.1. Quan điểm và đường lối chỉ đạo của đảng và nhà nước về sự phát triển
của khu vực kinh tế NQD:
Trước những năm 1980, ở nước ta kinh tế tư nhân không được khuyến khích
phát triển và là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa theo kiểu mệnh lệnh hành chính.
Trong thời gian này, nền kinh tế nước ta chỉ có hai hình thức kinh tế chính là: kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ tồn tại chủ yếu
dưới dạng phụ thuộc vào kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước, còn kinh tế tư bản tư
nhân hoặc đã chuyển thành kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước hay công ty hợp
doanh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
12-1986) đã đánh một dấu mốc quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước,
trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách kinh tế mới của đảng và nhà
nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và phát triển trong một nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước.
Các Đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của Đảng sau đó đã khẳng định lại
đường lối đổi mới được khởi xướng tại Đại hội VI và đưa ra các định hướng lớn
trong chính sách phát triển kinh tế ở Việt Nam. Theo đó, sự phát triển khu vực kinh
tế tư nhân được khẳng định như sau:
Thứ nhất, kinh tế cá thể có phạm vi tương đối rộng lớn, được phát triển trong
cả nước, thành thị và nông thôn, tại mọi ngành nghề, không hạn chế việc mở rộng
kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, có thể tham gia các loại hình hợp tác hoặc liên
kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức.
Thứ hai, kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi
cho quốc kế dân sinh được pháp luật quy định.
Đường lối đổi mới cơ bản đó của Đảng đã được thể chế hoá bằng các văn
bản pháp lý. Trước hết là trong Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có 15 điều quy định về chế độ kinh tế, theo đó nền kinh tế

tiêu phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới-giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trước hết cần quán triệt một số quan điểm trong việc phát triển khu vực kinh
tế tư nhân trong giai đoạn sắp tới:
1. Sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân là nhu cầu tất yếu khách quan và lâu
dài của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ sang kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều
trình độ phát triển thuộc nhiều phương thức sản xuất khác nhau đan xen, tạo nên sự
đa dạng trong cơ cấu các hình thức kinh tế thời kỳ quá độ. Trong đó các hình thức
kinh tế tư nhân đã và sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Lịch
sử phát triển hàng trăm năm của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như hơn 70
năm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đã chứng minh điều đó. Sau mấy trăm năm
phát triển, nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn chủ yếu là nền kinh
tế tư nhân; còn sau hơn 70 năm thử xây dựng một nền kinh tế gồm hai thành phần
chi phối là nhà nước và tập thể, phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa trước đây phải
trở lại với nền kinh tế tư nhân. Trong công cuộc đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt
Nam, trong khi chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã coi trọng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và điều đó đã đem lại
những thành công ngoạn mục. Ví dụ, chỉ với nghị quyết 10 của Bộ chính trị về
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong chính sách đổi mới quản lý sản
xuất nông nghiệp, trao lại quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh cho kinh tế hộ nông
dân đã đủ sức gây nên sự đột biến kì diệu mà ít người hình dung nổi là Việt Nam
từ một nước thiếu lương thực luôn phải nhập khẩu đã trở thành một trong những
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn còn nhiều
tồn tại và vướng mắc. Trong các cấp lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước vẫn còn
băn khoăn nghi ngại về sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nên giữa chủ
trương, chính sách và tổ chức thực hiện trong thực tế còn có khoảng cách, nhiều
chính sách và quy định cụ thể còn thể hiện sự phân biệt đối xử rõ rệt, dành lợi thế

trường, v.v) khuyến khích phát triển phải được thực hiện theo lĩnh vực, đối tượng
đầu tư chứ không phải là chủ thể đầu tư là ai, nhà nước hay tư nhân, trong nước
hay nước ngoài.
3. Khuyến khích hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội thúc đẩy
khu vực kinh tế tư nhân, trước hết là hình thức kinh tế tư bản tư nhân, tăng cường
đầu tư vốn, tài sản vào sản xuất kinh doanh quy mô lớn đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp, công ty lớn của các nước trong khu vực trên thị trường khu vực và
quốc tế.
2.1.2 Sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế NQD ở nước ta trong
những năm qua:
1. Sự phát triển về số lượng của các doanh nghiệp NQD
Trước đổi mới (năm 1986), khu vực kinh tế NQD hầu như không phát triển,
không được thừa nhận, khuyến khích và bảo vệ. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc
doanh và tập thể không đủ thỏa mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội
của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì vậy vẫn
âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các cán bộ công nhân viên nhà
nước và hộ xã viên hợp tác xã), các tổ hợp tác, tổ hợp sản xuất núp bóng doanh
nghiệp nhà nước hoặc hợp tác xã (thực chất là những loại hình kinh tế tư nhân khác
nhau). Tuy mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế
tư nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho
một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên nhà nước, xã viên hợp tác, giảm bớt căng
thẳng cho nền kinh tế lúc bấy giờ.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) và nhất là từ khi
ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Nghị định số 221/HĐBT (ngày
23/7/1991) về “Cá nhân và nhóm kinh doanh” cùng nhiều Chỉ thị, Nghị quyết,
Chính sách khuyến khích khác của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân đã
có bước ngoặt trong sự hồi sinh và phát triển (xem bảng 1). Năm 1990 mới có
khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, thì đến năm 1992 – sau một năm
thực hiện Nghị định số 221/HĐBT, đã có 1.498.600 hộ cá thể, tiểu chủ đăng ký
kinh doanh. Hai năm sau, năm 1994, đã lên tới 1.533.100 cơ sở, tăng thêm 34.500

H
122 1444 160
7
2968 4242 6303 7350 7100
% so năm
trước
1183,6 84,7 42,9 48,6 16,7 -3,4
CTCP 22 78 19 119 118 127 152 171
% so năm
trước
354,5 526,3 -0,8 7,6 19,7 12,5
Số cơ sở
kinh tế cá
thể***
149860
0
153310
0
2050200
(1882798
)
221500
0
% so năm
trước
102,3 133,7 108
(*) Theo số liệu báo cáo kinh tế của Ban kinh tế Trung ương:"Về kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế tư nhân...", Lê Đăng Doanh, Tổng cục Thống kê, Hà Nội,5-1999
(**) Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong cuốn "Kinh tế xã hội Việt Nam - thực
trạng xu thế và giải pháp", Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1996, tr 225

thì đến năm 1998 có 18750 cơ sở, tăng gần 70 lần, trong đó năm 1992 có tốc
độ tăng đột biến tới 1.361%, các năm 1994 và 1995 tăng trên 45%; từ năm
1996 và nhất là năm 1998 tốc độ phát triển đã chậm lại.
- Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn: Năm 1991 có 122 công ty, năm 1998
có 7100 công ty, tăng lên 58 lần, trong đó năm 1992 tăng đột biến về số
lượng lên tới 1.183%, nhưng năm 1997 tốc độ tăng chậm lại, và năm 1998
chỉ còn 3%.
- Công ty cổ phần: Năm 1991 có 22 công ty, đến năm 1998 tăng lên 171 công
ty – tăng 7,7 lần năm 1992 có tốc độ tăng số lượng cao nhất là 526%, nhưng
các năm 1993, năm 1995 và 1996 tốc độ tăng chậm lại, năm 1997 cũng có
tăng nhưng năm 1998 lại giảm còn 12%.
Nhìn chung, các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tăng
nhanh về số lượng trong giai đoạn 1992-1994, nguyên nhân sâu xa là sự khuyến
khích của các chính sách vĩ mô - đặc biệt là Luật doanh nghiệp tư nhân (1991) và
sau này là luật doanh nghiệp (1999). Sự suy giảm về số lượng doanh nghiệp giai
đoạn 1997-1998 là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, sự phát triển chậm lại của nền kinh
tế nước ta nói chung và những yếu kém của bản thân các doanh nghiệp, cùng với
những hạn chế của chính sách, giải pháp vĩ mô chưa theo kịp với tình hình v.v
Nhìn chung từ năm 1991 đến năm 1998, số lượng ba loại hình doanh nghiệp nêu
trên đã tăng tới 62 lần, tốc độ phát triển bình quân trong 5 năm (1993-1997) là
38%.
Trong tổng số 26.021 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
thống kê đến thời điểm năm 1998 thì: Doanh nghiệp tư nhân có 18.750 cơ sở,
chiếm 72%; tiếp theo là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn gồm 7.100 cơ sở,
chiếm 27,3% và sau cùng là công ty cổ phần gồm 171 cơ sở, chiếm 0,65%. Như
vậy, loại hình doanh nghiệp tư nhân là phổ biến nhất trong các loại hình kinh tế của
khu vực kinh tế tư nhân. (Biểu đồ 3)
Biểu đồ 3:Cơ cấu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân năm
1998(%)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status