Quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật - Pdf 26

Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng hình sự
LỜI MỞ ĐẦU
Bánh xe thời gian không ngừng quay, cùng với đó dòng lịch sử cũng
không ngừng thay đổi, trong guồng quay đấy của lịch sử ta dễ dàng nhận thấy sự
thay đổi rõ nét của pháp luật qua các giai đoạn phát triểu khác nhau của xã hội
loài người. Pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở bảo vệ tốt nhất quyền
và lợi ích của công dân. Đặc biệt trong luật TTHS quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng nói chung và người bị hại nói riêng luôn là những nhiệm
vụ được đặt ra hàng đầu. Vậy theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, quyền và nghĩa
vụ của người bị hại được quy định ra sao? Việc thực thi những quy định đó trong
thực tiễn như thế nào? Đây chính là lí do em chọn đề bài: Quyền và nghĩa vụ của
người bị hại trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại” làm tiểu luận của mình. Với
trình độ hiểu biết cũng như kiến thức còn hạn chế bài làm của em không tránh
khỏi những thiếu sót, kinh mong thầy cô quan tâm chỉ bảo để bài làm của em có
thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I) NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1. Khái niệm người bị hại.
Người bị hại là một thuật ngữ quen thuộc trong khoa học pháp lí về TTHS.
Tuy nhiên hiểu thế nào là người bị hại, phân biệt người bị hại với những chủ thể
khác trong TTHS thì cho đến nay vẫn không có sự thống nhất trong pháp luật
TTHS của các nước. Chẳng hạn luật TTHS của cộng hòa pháp, Liên bang Nga
hay Việt Nam dùng thuật ngữ “ người bị hại”, trong khi đó luật TTHS Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại
còn được gọi là “người bị thiệt hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên
cáo”
.
.Vì vậy, để có khái niệm thống nhất và đầy đủ về người bị hại cần xem xét
dưới nhiều khía cạnh khác nhau

tượng tác động của tội phạm. Đây là những khái niệm gần nhau nhưng không
đồng nhất với nhau. Tuy nhiên do giới hạn nên trong bài làm của mình em không
đi vào phân tích sự khác biệt của các khái niệm đã nêu.
Tóm lại, từ những lập luận trên, ta có thể đề xuất khái niệm về người bị hại
như sau: “Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của
người bị hại như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt
hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt
hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội
phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây
ra cho người bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và
nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người
bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
2. Cơ sở của việc quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại.
(1): Tạp chí khoa học pháp lý, số 4 năm 2001
Nguyễn Thị Thoa- MSSV: 341203 Page 2
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng hình sự
- Cơ sở pháp lí
Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng, vấn đề con
người là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội. Chẳng vậy mà triết
học Mác- Lênin nói riêng và chủ nghĩa Mác- Lênin nói chung đã đề cập đến
những vấn đề cơ bản của quyền con người và trở thành học thuyết về giải phóng
con người và xã hội loài người. Chế định quyền con người được ghi nhận tại
nhiều văn bản pháp lí của nhiều quốc gia trên thế giới. Bao trùm lên phạm vi toàn
thế giới là Hiến chương liên hợp quốc năm 1945 hay tuyên ngôn toàn thế giới về

Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng hình sự
Cơ sở pháp lý: Điểm a Khoản 2 Điều 51 BLTTHSTTHS năm 2003 quy
định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu”.
Nội dung: Người bị hại có quyền:
- Thứ nhất, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật: Người bị hại trong nhiều trường
hợp là người chứng kiến cụ việc xảy ra, biết các tình tiết liên quan đến hành vi
phạm tội, cho nên những tài liệu, đồ vật mà người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ đưa ra thường có độ chính xác, có ích cho quá trình giải quyết vụ án.
Ví dụ: giấy khám chữa bệnh, hóa đơn tiền viện phí và tiền thuốc...
- Thứ hai, quyền yêu cầu: Người bị hại có thể đưa ra những yêu cầu trong
các giai đoạn tố tụng khác nhau. Ví dụ: yêu cầu cơ quan điều tra thu thập thêm
chứng cứ để định tội, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu giám
định hoặc giám định lại nếu có căn cứ cho rằng kết quả giám định trước không
đúng sự thật, yêu cầu khởi tố vụ án trong 1 số trường hợp, rút đơn yêu cầu khởi
tố.
Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu của người bị hại. Sự đảm bảo này được luật hóa tại điều 122 BLTTHS:
“Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn đề liên quan đến vụ án thì
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết
yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận
yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lý do.”
Ý nghĩa : Pháp luật quy định người bị hại có quyền đưa ra “tài liệu, đồ vật,
yêu cầu” nhằm đảm bảo nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10
BLTTHS) và nguyên tắc Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án( Điều 19
BLTTHS), qua đó, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án, bảo vệ quyền và lợi
ích của người bị hại, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quyền được thông báo về kết quả điều tra
Cơ sở pháp lý: Điểm b Khoản 2 điều 51 BLTTHS quy định : Người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền “Được thông báo về kết quả điều

nhiên việc đưa ra mức bồi thường như thế nào là thỏa đáng và để Tòa án chấp
nhận hiện là một khó khăn cho người bị hại. Bên cạnh quyền được đề nghị mức
bồi thường thiệt hại thì người bị hại còn có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm bồi thường như: kê biên tài sản,
phong tỏa tài sản, tạm giữ tài sản (Điều 146 BLTTHS).
Ý nghĩa : Người bị hại là người bị thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản do
hành vi phạm tội gây ra do đó việc bồi thường thiệt hại để bù đắp thiệt hại bị xâm
phạm là rất cần thiết.
1.5. Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.
Cơ sở pháp lý: Điểm đ Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định người bị hại,
người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền : “Tham gia phiên toà; trình
bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình;”.
Nội dung: Phiên tòa chính là nơi kiểm tra công khai các chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án và các phán quyết đối với bị
cáo. Người bị hại có quyền tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình.
Nguyễn Thị Thoa- MSSV: 341203 Page 5
Bài tập lớn học kỳ Môn Luật Tố tụng hình sự
Người bị hại có thể đưa ra các yêu cầu, các tài liệu chứng minh cho thiệt hại là cơ
sở để đề nghị mức bồi thường. Đồng thời việc tham gia cũng đảm bảo cho người
bị hại biết được các quyết định của Tòa án để xem xét có nên kháng cáo và thời
hạn kháng cáo. Tại phiên tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch, đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, được trình
bày ý kiến, tham gia tranh tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Tòa án phải trao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có mặt tại phiên
tòa. Trong nhiều trường hợp việc có tham gia phiên tòa của người bị hại hay
không là căn cứ để hoãn phiên tòa.
Ý nghĩa: Là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án được quy định tại Điều 19 BLTTHS.
1.6. Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status