BÀI TẬP CÁ NHÂN MÔN QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC PHÂN TÍCH NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM - Pdf 26

BÀI TẬP QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
PHÂN TÍCH
NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM
GVHD: TS Nguyễn Thanh Liêm
Sinh viên: Lương Minh Sâm
ID: 11752335
Đà Nẵng, 12/2012
1
MỤC LỤC
I. Giới thiệu chung về ngành dầu khí Việt Nam 3
1. Định nghĩa ngành 3
2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển ngành dầu khí 4
3. Đặc trưng ngành dầu khí 5
4. Chu kỳ phát triển ngành dầu khí 4
5. Vị trí ngành dầu khí Việt Nam trong nền kinh tế 7
II. Phân tích cạnh tranh 8
1. Phân tích môi trường tác động 8
1.1 Môi trường chính trị - xã hội 8
1.2 Môi trường kinh tế 9
1.3 Môi trường công nghệ 10
2. Phân tích 5 lực lượng cạnh tranh trong ngành dầu khí 10
2.1 Cạnh tranh trong ngành 10
2.2 Các đối thủ tiềm năng 12
2.3 Các sản phẩm thay thế 13
2.4 Nhu cầu sử dụng 13
2.5 Khả năng cung cấp 14
3. Phân tích SWOT ngành dầu khí Việt Nam 16
3.1 Điểm mạnh 16
3.2 Điểm yếu 17
3.3 Cơ hội 17
3.4 Thách thức 18

1961, với tên là đoàn thăm dò dầu lửa 36. Đoàn địa chất 36 cũng là tổ chức đầu
tiên của Việt Nam có nhiệm vụ thăm dò, tìm kiếm dầu khí tập trung tại đồng
bằng sông Hồng. Nhưng tới tận năm 1981, những mét khối khí đầu tiên được
đưa lên từ mỏ khí Tiền Hải-Thái Bình, với sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Từ đó
đến nay ngành dầu khí luôn giữ vị thế hàng đầu trong xuất khẩu của Việt Nam
cũng như những đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Dầu khí được khai thác chủ
yếu từ trong thềm lục địa và góp phần cung cấp năng lượng và nhiên liệu cho
phát triển kinh tế đất nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Ngành dầu khí Việt Nam
hiện nay vẫn đặt khai thác xuất khẩu là chủ lực nên phụ thuộc khá nhiều vào giá
dầu thế giới. Trong tương lai, ngành vẫn sẽ tiếp tục đóng vai trò rất quan trọng
vào việc phát triển đất nước.
Nguồn: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Việt Nam
4
Lịch sử hình thành và quá trình phát triển ngành dầu khí
- Việt Nam bắt đầu tiến hành khảo sát, tìm kiếm thăm dò dầu khí từ năm
1945.
- Năm 1969 Liên đoàn Địa chất 36, tiền thân là Đoàn địa chất 36 có
nhiệm vụ xây dựng và quy hoạch kế hoạch nghiên cứu tìm kiếm và thăm dò dầu
mỏ và khí đốt ở trong nước.
- Năm 1975 Tổng Cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được thành lập dựa
trên cơ sở Liên đoàn địa chất 36 và một bộ phận thuộc Tổng Cục Hóa chất.
- Năm 1976 phát triển dòng khí thiên nhiên đầu tiên ở huyện Tiền Hải-
Thái Bình.
- Năm 1981 Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt-Xô (Vietsovpetro) được
thành lập.
- Năm 1984 hạ thủy chân để giàn khoan dầu khí đầu tiên của Việt Nam
(MSP-1) tại mỏ Bạch Hồ.
- Ngày 26/6/1986 Việt Nam đã có giàn khoan dầu khí đầu tiên của Việt
Nam (MSP-1) tại mỏ Bạch Hồ.
- Tháng 4/1990 Tổng Cục Dầu khí Việt Nam được sáp nhật vào Bộ Công

thế giới, lại là khu vực không ổn định về chính trị.
- Dầu khí phần lớn nằm sâu trong lòng đất, lòng biển nên rất khó khăn
trong việc thăm dò, khai thác.
- Dầu thô phải qua chế biến mới sử dụng được nên đòi hỏi công nghệ lọc
dầu.
- Dầu khí có thể thúc đẩy hoặc cản trở kinh tế phát triển bởi vì cuộc
khủng hoảng năng lượng thường kéo theo là cuộc khủng hoảng về kinh tế.
4. Chu kỳ phát triển ngành dầu khí
Tạp chí Dầu khí (Oil & Gas Journal) dự báo sản lượng dầu của Việt Nam
sẽ giảm 3% trong giai đoạn 2007-2018, với sản lượng đạt đỉnh cao 400.000
thùng/ngày trong năm 2009-2010, trước khi tụt xuống chỉ còn 330.000
thùng/ngày vào năm 2018. Báo cáo về tình hình dầu khí Việt Nam dự báo,
lượng dầu tiêu thụ ở Việt Nam dự kiến tăng 101% trong giai đoạn 2007-2018.
Tuy nhiên, mức tăng sẽ giảm dần xuống còn khoảng 6% vào cuối giai đoạn nói
trên và vào năm 2018, lượng dầu tiêu thụ ở Việt Nam vào khoảng 598.000
thùng/ngày.
Việt Nam chiếm 1,51% tổng nhu cầu dầu của khu vực châu Á-Thái Bình
Dương và chiếm 4,52% nguồn cung dầu của khu vực này. Lượng dầu tiêu thụ
của châu Á-Thái Bình Dương đã tăng từ 21,4 triệu thùng/ngày năm 2001 lên
25,68 triệu thùng/ngày năm 2007 và dự kiến ở mức trung bình 26,32 triệu
thùng/ngày trong năm 2008, có thể tăng lên đến 29,65 triệu thùng/ngày vào năm
6
2013. Nhu cầu khí đốt của Việt Nam dự kiến tăng từ 7,7 tỷ m
3
năm 2007 lên tới
22 tỷ m
3
vào năm 2013 và sản lượng khí đốt cũng tăng từ 7,7 tỷ m
3
năm 2007

nghiệp và tiêu dùng dân sinh.
Xuất khẩu dầu thô có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đóng góp phần
lớn kim ngạch xuất khẩu cả nước, đặc biệt là giai đoạn trước đây, bình quân
khoảng 15%. Hiện nay, tỷ trọng này đã giảm và chỉ còn chiếm khoảng 7,5%.
Trong 8 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 5,5 tỷ
USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ, chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước,
đồng thời đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng 70,8 tỷ đồng, chiếm
16,9%.
7
Xuất khẩu dầu thô trong những năm 2004-2008, luôn đứng đầu trong các
mặt hàng xuất khẩu của nước ta với tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, đóng góp
trung bình khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, xu hướng xuất
khẩu dầu thô đang có chiều hướng giảm dần và tỷ trọng này đã giảm xuống mức
11% năm 2009 và 6,9% năm 2010, đứng sau các sản phẩm như dệt may
(15,6%), giày dép (7,1%) và thủy sản (6,9%). Năm 2011, ngành đã vươn lên
dành lại vị trí thứ 2 với mức đóng góp 7,6% chỉ sau ngành dệt may. Trong 06
tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành tăng 12,5% đạt 3,8 tỷ
USD. Tuy vậy, do lĩnh vực hàng điện thoại tăng mạnh (129,8%) nên tỷ trọng
xuất khẩu của ngành dầu khí còn 7,2% và dứng ở vị trí thứ ba.
Ngành dầu khí đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước đặc biệt là
những năm trước đây. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu đang giảm dần song
ngành dầu khí Việt Nam vẫn là đơn vị duy trì mức đóng góp khoảng 18-22%
tổng GDP cả nước. Trong năm 2010, PVN đã đạt doanh thu trên 48.000 tỷ đồng,
tương đương 24 tỷ USD và chiếm khoảng 20% GDP. Năm 2011, tổng doanh thu
của toàn tập đoàn đạt 675.3 nghìn tỷ; lợi nhuận trước thuế đạt 89,4 nghìn tỷ, nộp
ngân sách 160,8 nghìn tỷ. Tính đến ngày 12/12/2012, Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam (PVN) đã cán đích sản lượng dầu đúng kế hoạch với 15,81 triệu tấn dầu,
gia tăng trữ lượng đạt 37 triệu tấn quy dầu. Dự kiến đến hết năm 2012, sản lượng
khai thác dầu sẽ đạt 16,4 – 16,5 triệu tấn và PVN sẽ nộp ngân sách vượt kế
hoạch khoảng 35 - 40 nghìn tỉ đồng.

la Mỹ vào cuối năm 2010. Tỷ lệ dân nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống
còn 14,5% vào năm 2008, đồng thời các chỉ số an sinh xã hội khác cũng được
cải thiện đáng kể. Việt Nam đã đạt được 5 trong số 10 Mục tiêu Phát triển Quốc
gia Thiện nhiên kỷ ban đầu và đang tiến triển rất tốt để có thể đạt thêm 2 Mục
tiêu nữa trước năm 2015.
Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020 sẽ tập trung
vào cải cách cấu trúc, bền vững môi trường, bình đẳng xã hội cũng như các vấn
đề mới nổi trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Chiến lược xác định ba lĩnh vực
“đột phá” bao gồm: (i) Phát triển nhanh nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực
phục vụ các ngành công nghiệp hiện đại và đổi mới căn bản). (ii) Hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, và (iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Mục tiêu tổng
quát với Việt nam là phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
9
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển là điều kiện thuận lợi để
ngành dầu khí Việt Nam tham gia góp phần hoàn thành mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3 Môi trường công nghệ
Với quan điểm “Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi
căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế –
xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng suất lao động xã hội cao”, Đảng và Nhà nước đã từng bước gắn công
nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là
then chốt đẩy mạnh công nghiệp hoá.
Nền công nghệ Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
của đất nước. Hoạt động trong môi trường công nghệ đất nước còn nhiều khó
khăn, ngành dầu khí Việt Nam gặp phải nhiều thách thức. Tuy nhiên, trong điều
kiện giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước ngày càng rộng mở, ngành

cổ phẩn dầu khí Việt Nam, Công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam)…Đặc
biệt, các công ty trong ngành được sự hỗ trợ từ tối đa từ công ty mẹ là Tập đoàn
dầu khí Việt Nam có tiềm lực tài chính hùng hậu trong sự phát triển của từng
thành viên. Do vậy, đây cũng chính là rào cản đối với các doanh nghiệp mới
tham gia thị trường dầu khí tại Việt Nam.
Hiện tại Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang cung cấp cho điện lưới quốc
gia khoảng 10% và cung cấp nhiên liệu (chủ yếu là khí) khoảng 40% cho các
nhà máy điện. Tập đoàn dầu khí Việt Nam đang có xu hướng mở rộng chuỗi giá
trị sản xuất của ngành sang lĩnh vực điện, sản xuất phân đạm…Do đó, sẽ đầu tư
một số dự án liên quan tới nhiệt điện, thủy điện, tổ hợp khí – điện – đạm Cà
Mau. Việc mở rộng chuỗi giá trị ngành sang các lĩnh vực khác như sản xuất
điện, xây lắp, bất động sản…cũng sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh
nghiệp bên ngoài cũng như các tập đoàn khác đã có kinh nghiệm lâu năm hơn.
Ở nước ngoài, PVN đang hoạt động ở 18 quốc gia và vùng lãnh thổ và
hợp tác thực hiện 25 dự án dầu khí. PVN xác định đầu tư có trọng điểm vào
những khu vực có tiềm năng dầu khí cao và có quan hệ chính trị tốt, đồng thời
đa dạng hóa hình thức đầu tư với các công ty dầu khí lớn vừa để tránh rủi ro,
vừa để học tập, hội nhập quốc tế. Theo đó, địa bàn Nga và các nước thuộc Liên
Xô cũ là môi trường mà ngành dầu khí có rất nhiều thuận lợi. Vì vậy trong hoạt
động đầu tư dầu khí ra nước ngoài, Nga và các nước Liên Xô cũ luôn được PVN
ưu tiên số một. Địa bàn quan trọng thứ hai là khu vực Đông Nam Á, hiện tại
PVN hợp tác với Indonesia và Malaysia. Khu vực thứ ba là Venezuela và Mỹ La
tinh, khu vực này có chính sách thu hút đầu tư vào dầu khí rất cởi mở. Địa bàn
thứ tư và thứ năm là Trung Đông và Bắc Phi cũng được PVN quan tâm, tuy
nhiên khu vực này gặp nhiều khó khăn do thường có diễn biến bất ổn về chính
trị, quân sự, nên các hoạt động đầu tư dầu khí cũng gặp nhiều trở ngại.
11
Đến nay, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ký được 87 hợp đồng dầu khí
với các công ty dầu khí của Mỹ, Nhật, Nga, Malaysia, Singapore, Canada, Úc
v.v. trong đó có 60 Hợp đồng dầu khí đang còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư

này. Giám đốc Trung tâm Cơ sở Hạ tầng Braxin (CBIE) Adriano Pires cho rằng,
đây là một chiến lược của Trung Quốc, như họ đang làm tại Vênêxuêla,
Áchentina và nhiều nơi khác trên thế giới, để có thể làm chủ trữ lượng dầu mỏ
và qua đó bảo đảm nhu cầu tiêu thụ phục vụ phát triển đất nước. Theo Cơ quan
Xúc tiến Xuất khẩu Braxin, Trung Quốc đang có ý định tăng thêm khoảng 60%
lượng dự trữ dầu mỏ chiến lược cho dù nó nằm ở bất kỳ đâu trên thế giới.
Myanma: Myanmar cũng có tiềm năng trong những lĩnh vực tương tự
Việt Nam, trong đó có dầu khí. Bên cạnh nông nghiệp, dầu khí cũng là một
12
trong những tài nguyên quý của Myanmar. Trước khi bị ấm vận, Myanmar cũng
đã từng là một nước xuất khẩu dầu khí. Năm 2010, dầu khí là một trong hai mặt
hàng (cùng với nông nghiệp) được xuất khẩu nhiều nhất từ quốc gia này, với giá
trị xuất khẩu đạt 8,86 tỉ USD. Nếu Việt Nam có nhiều tiềm năng về dầu tại khu
vực biển Đông thì Myanmar, với các cảng biển hướng ra Ấn Độ Dương, cũng
đang thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Theo số liệu thống
kê chính thức, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dầu khí Myanmar chạm mức 13.5
tỷ USD trong năm 2010. Trong năm 2009-2010, Myanmar đã xuất khẩu tới 8.29
tỷ m
3
khí, và trở thành nước xuất khẩu khí lớn thứ 2 tại khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Hiện tại, một ủy ban thực hiện dự án đặc biệt của Chính phủ, đứng
đầu là Tổng thống U Thein Sein, đang chú trọng vào lĩnh vực dầu khí và đề ra
các quy định nhằm hợp tác nhiều hơn với các công ty khai thác và sản xuất dầu
khí nước ngoài. Myanmar đang xúc tiến nhiều dự án khai thác và sản xuất dầu
khí cũng như khai mỏ với các công ty của Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc.
2.3 Các sản phẩm thay thế
Các nguồn năng lượng đang được sử dụng gồm có: gỗ, sức nước, sức gió,
địa nhiệt, ánh sáng mặt trời, nhiên liệu hóa thạch (than đá và dầu khí tự nhiên)
và nhiên liệu hạt nhân (uranium). Hiện nay, nguồn nhiên liệu hóa thạch chiếm
khoảng 80% nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp. Trong đó, phần lớn dầu mỏ

nếu so sánh với các nước khai thác và xuất khẩu dầu mỏ, khí đốt lớn trên thế
giới, trữ lượng dầu và khí của Việt Nam như vậy là rất khiêm tốn. Mặc dù vậy,
Việt Nam vẫn chưa khai thác được nhiều trữ lượng khiêm tốn này.
Theo báo cáo mới nhất của BP vào tháng 6.2012 và VCBS tổng hợp lại,
trong những năm gần đây, sản lượng khai thác dầu thô của Việt Nam tăng
trưởng chậm, thậm chí còn tăng trưởng âm trong 2008 và 2010. Trong khi đó
nhu cầu tiêu thụ dầu và khí đốt trong nước ngày càng tăng mạnh. Trung bình
trong 11 năm gần đây, từ 2000 – 2011, sản lượng khai thác dầu của Việt Nam
không tăng, trong khi sản lượng tiêu thụ của Việt Nam tăng 7%. Đối với khí tự
nhiên, Việt Nam khai thác được bao nhiêu thì cũng tiêu thụ hết bấy nhiêu. Trung
bình sản lượng khí tự nhiên khai thác và tiêu thụ đều tăng 17% trong giai đoạn
2000 – 2011.
2.5 Khả năng cung cấp
Ngành dầu mỏ của Việt Nam chỉ mới đi vào khai thác nên chưa thể đáp
ứng đủ nhu cầu sử dụng trong nước. Hiện nay, nước ta chủ yếu vẫn là khai thác
để xuất khẩu dầu thô, nhập khẩu dầu tinh phục vụ cho nhu cầu nội địa. Một số
14
nhà máy lọc dầu đã đi vào hoạt động như nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy
lọc dầu Nghi Sơn v.v. nhưng chỉ mới cung cấp được khoảng 30% nhu cầu nội
địa.
Sản lượng dầu khí Việt Nam từ năm 2001-2005 có sự tăng trưởng khá cao
và đều. Tuy nhiên, giai đoạn 2006-2008, Petrovietnam sản lượng sụt giảm hẳn là
do diễn biến ở các mỏ phức tạp, thời tiết xấu, sản lượng khai thác không đạt
mức dự kiến khi thăm dò v.v. Giai đoạn 2009 đến nay, công tác khai thác đã có
những bước tiến triển tốt. Petrovietnam liên tiếp hoàn thành vượt mức kế hoạch
đề ra và đặt kế hoạch khai thác năm 2012 cao ở mức 35 triệu tấn dầu quy đổi,
trong đó có khoảng 24,81 triệu tấn dầu và khí. Trong 05 tháng đầu năm 2012,
Petrovietnam đã khai thác được 10,86 triệu tấn dầu khí, hoàn thành 43,8% kế
hoạch năm.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã triển khai thành công hoạt động tìm kiếm,

Tình trạng độc quyền: Ngành năng lượng nói chung và ngành dầu khí nói
riêng có tác động rất lớn đến nền kinh tế đất nước và an ninh Việt Nam nên vẫn
nằm trong sự kiểm soát và trực tiếp quản lý của Nhà nước. Trong thời gian đến,
mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt và gây gắt hơn, với sự tham gia của các
tổ chức quốc tế, tình trạng hưởng lợi từ thế độc quyền cũng sẽ giảm dần.
2. Điểm yếu
Nền kinh tế thế giới biến động mạnh, tình trạng lạm phát, suy giảm suy
thoái kinh tế toàn cầu đã có nhiều tác động đến sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam; đặc biệt là giai đoạn từ giữa năm 2008 đến năm 2010, giá dầu biến động
phức tạp (tăng dần trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến cuối năm 2008 và
giảm đột ngột từ cuối năm 2008 đến năm 2009) đã ảnh hưởng mạnh tới hoạt
động xuất khẩu và đầu tư; hoạt động sản xuất - kinh doanh của Tập đoàn cũng
không nằm ngoài những tác động đó, đặc biệt trong giai đoạn giá dầu thấp, hầu
hết các nhà thầu đều chủ động giãn đầu tư trong hoạt động phát triển mỏ, nhất là
các mỏ nhỏ, các mỏ ở các vùng nước sâu, xa bờ, nhạy cảm, các dự án hợp tác
khai thác dầu khí tại những khu vực khác trên thế giới.
Việc đánh giá và dự báo tình hình, đặc biệt là tình hình biến động tài
chính và giá dầu thô trên thị trường trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu
với nền kinh tế thế giới còn yếu.
Điều kiện triển khai công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ngày càng khó
khăn và đòi hỏi chi phí cao hơn nhiều so với trước đây; sự can thiệp của nước
ngoài ở Biển Đông làm ảnh hưởng tới chương trình công tác của một số nhà
thầu dầu khí và chương trình phát triển chung của ngành. Sự mất ổn định về
chính trị ở những khu vực có trữ lượng tiềm năng dầu khí lớn (Trung Đông,
Nam Mỹ) dẫn tới việc tìm kiếm những dự án dầu khí tốt ở nước ngoài để đầu tư
gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi vốn đầu tư ngày càng tăng.
Giá cả của nhiều loại thiết bị, vật tư, nhiên liệu chủ yếu và dịch vụ liên
quan đến hoạt động sản xuất - kinh doanh và đầu tư tăng, giảm không ổn định.
Nhân lực có trình độ chuyên môn cao vẫn là một vấn đề chưa thể khắc
phục ngay lập tức, các doanh nghiệp dầu khí Việt Nam vẫn phải trả lương cao

Nam luôn là tập đoàn trực thuộc Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ
trực tiếp nắm giữ và quyết định phê duyệt các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch
v.v. cũng như được sự hỗ trợ đắc lực về nguồn vốn, công nghệ v.v. Luật Dầu khí
và Luật Đầu tư nước ngoài cũng được thông qua với những điều kiện thuận lợi.
Bên cạnh đó, Các chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với phát triển ngành
dầu khí đã được xác định rõ trong các Nghị quyết, Kết luận của Bộ Chính trị và
Chính phủ; Chiến lược Quy hoạch phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, Chiến
lược năng lượng quốc gia của Việt Nam, Chiến lược biển Việt Nam và các văn
bản Chiến lược, Quy hoạch của các ngành kinh tế liên quan khác. Chính vì vậy,
Việt Nam đã thu hút sự chú ý của các công ty dầu khí lớn trên thế giới đến hợp
tác thăm dò khai thác. Bên cạnh đó, Nhà nước còn hỗ trợ ngành xây dựng nhà
máy lọc dầu Dung Quất song song với việc hỗ trợ Tập đoàn hỗ trợ hợp tác, tìm
kiếm, khai thác dầu thô từ nước ngoài.
1 4. Thách thức
2 Ngành dầu khí đang đứng trước việc trữ lượng dầu mỏ đang có nguy cơ
giảm xuống do một số mỏ dầu khí đang khai thác đã có dấu hiệu suy giảm về
sản lượng cũng như tốc độ khai thác cao hơn so với tốc độ thăm dò tìm kiếm
nguồn dầu mới. Những năm trở về trước, tất cả các mỏ dầu khí ở Việt Nam đều
được khai thác ở trên cạn và ở vùng biển có độ sâu thấp hơn 200m. Chính vì
vậy, công tác tìm kiếm thăm dò dầu, khí trong thời gian tới phải tiến hành chủ
18
yếu ở vùng nước sâu (sâu hơn 200 mét nước) và xa bờ (cách bờ hơn 200km).
Tuy nhiên, việc mở rộng thăm dò khai thác ra vùng biển sâu hơn sẽ rất tốn kém
rủi ro cao, đòi hỏi kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, cán bộ với chuyên môn giỏi và
đầu tư lớn; cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngành.
3 Thị trường dịch vụ dầu khí phụ thuộc hoàn toàn vào kế hoạch khoan tìm
kiếm, thăm dò, khai thác. Do vậy, sự lên xuống của giá dầu trên thế giới có thể
gây ảnh hưởng đến doanh thu của Công ty. Nếu giá dầu trên thế giới giảm, sẽ
kéo theo việc giảm hoạt động tìm kiếm và khai thác của các công ty dầu khí,
khiến cho phí cho thuê giàn khoan, đồng thời cũng giảm theo.

độc hại của chất thải phóng xạ.
- Trữ lượng dầu mỏ đang giảm do tốc độ khai
thác cao hơn so với tốc độ thăm dò.
- Việc mở rộng thăm dò khai thác ra vùng
biển sâu sẽ rất tốn kém, rủi ro.
- Việc mở rộng sang các lĩnh vực khác chịu
sự cạnh tranh lớn do đối thủ cạnh tranh đã có
kinh nghiệm lâu năm hơn.
- Kế hoạch tái cấu trúc PVN có ảnh hưởng
đến từng doanh nghiệp trong ngành.
19
4. PHÂN TÍCH LỰC LƯỢNG DẪN DẮT VÀ YẾU TỐ THÀNH CÔNG
4.1. Lực lượng dẫn dắt
a. Nguồn nhân lực
PVN có hơn 60.000 lao động đến cuối năm 2011 gồm 8,16% lao động
quản lý, 41,99% lao động chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, 49,85% lao động trực
tiếp sản xuất kinh doanh. Tập đoàn đã tổ chức đào tạo chuyên sâu và nâng cao
cho 3.314 (Công ty mẹ) và hơn 67 nghìn lượt người (33 đơn vị trực thuộc tập
đoàn). Ngoài ra, trường Đại học Dầu khí Việt Nam được thành lập năm 2010
nhằm cung cấp nhân lực cho 04 chuyên ngành: Địa chất dầu khí, Địa vật lý dầu
khí, Khoan khai thác, Lọc hóa dầu. Thực tế cho thấy, đội ngũ nhân lực vận hành
và bảo dưỡng ngày càng trưởng thành, đã dần thạo nghề và tiến tới thay thế
hoàn toàn chuyên gia nước ngoài như ở nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Liên
doanh Việt-Nga (Vietsovpetro) v.v. Tuy nhiên, so với ngành dầu khí ở các nước
phát triển thường có tỷ lệ người lao động đạt 100%, số lượng lao động trình độ
cao đẳng, đại học, sau đại học đạt từ 72% trở lên thì ở Việt Nam con số này còn
tương đối thấp, chỉ mới đạt 53%.
b. Về công nghệ
Công nghệ khai thác, vận chuyển, lọc dầu và sử dụng khí của Việt Nam
đã có sự cải tiến đáng kể về nhiều mặt khi hợp tác và học hỏi ở các nước có

tấn/ngày và ứng dụng công nghệ hóa dầu đầu tiên ở Việt Nam đáp ứng được
21
khoảng 50% nhu cầu trong nước. Khả năng khai thác được nâng cấp, kể từ năm
2010, PVN đã có những mỏ được khai thác ở mức sâu hơn 200m so với mực
nước biển. Ngoài ra, Việt Nam còn liên doanh khai thác dầu khí ở các Việt Nam
khác như Cuba, Venezela, Malaysia, Iran v.v.
Theo báo cáo về năng lượng toàn cầu của BP (Statiscal review of world
energy full report) thì đến cuối năm 2010 Việt Nam đang đứng thứ 4 về dầu mỏ
và thứ 7 về khí đốt trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, so với thế giới thì
lần lượt là thứ 25 và 30. Việt Nam có hệ số trữ lượng/sản xuất (R/P) cao nhất thế
giới, hệ số R/P dầu thô là 32,6 lần (đứng đầu khu vực Châu Á Thái Bình Dương
và thứ 10 thế giới) và R/P khí đốt là 66 lần (đứng đầu khu vực Châu Á Thái
Bình Dương và đứng thứ 6 thế giới) cho thấy tiềm năng sản xuất còn rất lớn và
tiềm năng khai thác khí đốt cao hơn so với dầu mỏ. Hiện tại, 100% lượng khí
đốt khai thác dùng để phục vụ nhu cầu sản xuất công nghiệp trong nước, ưu tiên
điện và đạm. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng khí đốt sinh hoạt đang có xu hướng
tăng cao, vượt khả năng đáp ứng của PVN.
Sự phát triển của ngành dầu khí gắn liền với biến động giá dầu thô thế
giới và triển vọng của nền kinh tế. Hiện nay, giá dầu đang giao dịch ở mức 70-
93,87 USD/thùng. Ở mức này thì hoạt động của doanh nghiệp dầu khí chưa có
22
gì nổi bật, nhưng về dài hạn khi giá dầu quay trở lại mức trên 100 USD/thùng thì
triển vọng của các doanh nghiệp là rất tốt. Các doanh nghiệp đã niêm yết có cơ
hội gia tăng giá trị vốn hóa.
Để khẳng định vai trò đầu tàu kinh tế của đất nước, theo Chiến lược phát
triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến 2025, tổng trữ
lượng dầu khí của Việt nam được đánh giá đạt khoảng (3,8 ÷4,2).109 tấn dầu
quy đổi, trong đó khoảng (1,4÷1,5).109 dầu khí ngưng tụ và (2,4:2,7).1012 m3
khí thiên nhiên. Tiềm năng dầu khí chưa phát hiện còn lại tập chung chủ yếu ở
vùng sâu, xa bờ như: bể Phú Khánh, vùng Tư Chính - Vũng Mây và các vùng

trong nước. Hiện nay Việt Nam cũng đang có kế hoạch đầu tư 2 dự án nhà máy
lọc dầu mới là Nghi Sơn (công suất 10 triệu thùng/năm) và Long Sơn (công suất
10 triệu thùng/năm và có thể mở rộng lên công suất 20 triệu thùng/năm vào năm
2025). Như vậy, nếu các nhà máy đúng tiến độ thì tới 2020, Việt Nam có thể
23
không phải phụ thuộc vào các sản phẩm xăng, dầu nhập khẩu. Tính đến năm
2010, Việt Nam không nhập khẩu dầu thô, tuy nhiên năm 2015 do nhu cầu dầu
thô cho các nhà máy lọc dầu dự kiến xây dựng thì Việt Nam sẽ phải nhập khẩu
dầu thô. Dự kiến nguồn nguyên liệu cho các nhà máy lọc dầu của Việt Nam
trong giai đoạn 2012-2025 là từ các nước: Kuweit, Venezuela và Liên bang Nga.
Dầu khí là ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng của đất nước. Hàng năm doanh
thu toàn ngành Dầu khí đạt gần 20% GDP cả nước và đóng góp khoảng 30%
tổng thu nhập ngân sách quốc gia. Tốc độ tăng trưởng của ngành Dầu khí luôn
duy trì ở mức cao và ổn định trên cơ sở một nền tảng vững chắc về nhân lực và
chính sách phát triển bền vững và hợp lý. Đến nay, toàn ngành Dầu khí đã khai
thác được 230 triệu tấn dầu thô và condensat, gần 45 tỷ m3 khí, mang lại nguồn
thu ngoại tệ trên 57 tỷ USD, nộp ngân sách nhà nước gần 35 tỷ USD và tạo được
nguồn vốn chủ sở hữu trên 100 nghìn tỷ đồng.
.
24
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
www.nangluongvietnam.vn
www.thuongmai.vn
www.abs.com.vn
www.pvnc.com.vn
www.vaec.gov.vn
www.sggp.org.vn/
www.apec.com.vn
www.tapchitaichinh.vn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status