Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam - Pdf 26

Lời mở đầu
Trong các chương trình kinh tế- xã hội và các chiến lược phát triển kinh
tế thì hầu hết các quốc gia đều nhấn mạnh vào việc tăng trưởng kinh tế
nhanh và mạnh.
Nhưng có thật sự chỉ cần tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh thì nó sẽ là
đầu tầu, kéo theo việc giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế và các vấn đề
xã hội khác.
Thực tế cho thấy rằng nhiều nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao
nhưng những vấn đề về xã hội thì rất phức tạp, thu nhập bình quân tăng
cao nhưng đời sống của nhân dân không được cải thiện, thậm chí còn
thấp hơn.Khoảng cách về giàu nghèo cũng ngày càng tăng thêm.
Phát triển kinh tế bao gồm 3 nội dung : tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu và phúc lợi cho con người.Trong nội dung phúc lợi cho con người
bao gồm 3 vấn đề: bất bình đẳng, đói nghèo và điều kiện sống khác.
Làm rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo để
thấy rằng tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để phát
triển kinh tế. Để từ đó có những biện pháp vừa tăng trưởng kinh tế nhanh
mà còn nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo , để từ đó có thể
đua ra được những chính sách phát triển toàn diện cho quốc gia.

Chương 1:Những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế
và xoá đói giảm nghèo
1. Tăng trưởng kinh tế
1.1 Bản chất của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm ( hay gia
tăng ) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ cuat nền kinh
tế tạo ra. Do vậy , để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dung mức
tăng thêm của tổng sản lượng nền kinh tế ( tính toàn bộ hay tính bình
quân theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt

cả sự tăng thêm về quy mô sẳn lượng (tăng trưởng) và cả sự tiến bộ về cơ
cấu kinh tế-xã hội).
Những vấn đề cơ bản của định nghĩa trên bao gồm:
+ Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lượng của cải
vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã
hội
+Tăng thêm về quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế-xã hội là
hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vưa độc lập tương đối của lượng
và chất.
+Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do những nhân tố
nội tại của bản than nền kinh tế quyết định.
+Kết quả của sự phát triến kinh tế-xã hội là kết quả của một quá trình vận
động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể hiện
sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Phát triẻn kinh tes là một khái niệm chunh nhất về sự chuyển biến của
nền kinh tế,từ trạng thiái thấp lên một trạng thái cao hơn.Do vậy không có
tiêu chuẩn chung về sự phát triển. Để nó lên trình độ phát triển cao, thấp
khác nhau giữa các nền kinh tế trong mối thời kỳ, các nhà kinh tế học
phân quá trình đó ra các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và
phát triển…gắn với các nấc thang đó là những giá trị nhất định mà hiện
tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
2.2 Các đại lượng đo lường phát triển kinh tế
Ngoài các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, các đại lượng đo lường phát triển
kinh tế còn sử dụng các chỉ số phản ánh sự biến đổi cơ cấu kinh tế- xã hội
Các chỉ số xã hội của phát triển
-Tuổi thọ bình quân trong dân số:phản ánh một cách tổng hợp về tình
hình sức khoẻ của dân cuu trong một nước.Trong đó nó bao hàm sự văn
minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và tinh thần được nâng
cao.
-Mức tăng dân số hằng năm:là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu nhập

tiến bộ của nền sản xuất trong nước bằng việc đáp ứng được ngày càng
nhiều các yếu tố sản xuất do trong nước khai thác
3.Nghèo đói và phương pháp tiếp cận
3.1 Đói nghèo và các khía cạnh của nghèo đói
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ lực
chung của cả cộng đòng quốc tế nhằm từng bước xoá bỏ đói nghèo và
nâng cao phúc lợi chủa người dân. Tuy nhiên, rất khó có thể đưa ra một
khái niệm chung, thống nhất về thế nào là đói nghèo.Hầu hết tất cả đều
coi đói nghoè là tình trạng một nhóm người trong xã hội không có khả
năng được hưởng “một cái gì đó” ở mức độ tối thiểu cần thiết. Sự khác
nhau về việc xác định “ cái gì đó” đã tạm chia thành ba trường phái chính
trong quan niệm về nghèo đói.
Trường phái thứ nhất , được coi là trường phái phúc lợi, coi một xã hội có
hiện tượng đói nghèo khi một hay nhiều cá nhân trong xã hộiđó không có
được một mức phúc lợi kinh tế được coi là cần thiết để đảm bảo một cuộc
sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuânt của xã hội đó.Cách hiểunày coi” cái
gì đó” là phúc lợi kinh tế của cá nhân, hay độ thoả dụng cá nhân.Tuy
nhiên, vì độ thoả dụng vốn là một khái niệm mang tính ước lệ, không thể
đo lường hay lượng hoá được,nên người ra thường đồng nhất nó với một
khái niệm khác cụ thể hơn, đó là mức sống.Khi đó, tăng thu nhập được
xem là điều quan trọng nhất để nâng cao mức sống hay độ thoả dụng cá
nhân.
Quan niệm về nghèo đói như vậy tuy được coi là cần , nhung chưa đủ vì
đói nghoè còn bao hàm nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ riêng thu
nhập.Vì thế, trường phái thứ hai, trường phái nhu cầu cơ bản, coi “cái gì
đó” mà người nghèo thiếu là một tập hợp những hang hoá và dịch vụ
được xác định cụ thểmà việc thoả mãn chúng là điều kiện tiên quyết để
đảm bảo chất lượng cuộc sống.Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm lương
thực thực phẩm, nước, điều kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục, y tế cơ
sở và giao thông công cộng.Trong nhưng nhu cầu đó thì nhu cầu về dinh

nghèo cũng như định hướng cho chính sách XĐGN.
Ngày ngay, hầu hết các tổ chức quốc tế như NHTG, Liên Hiệp Quốc đều
đã mở rộng khái niệm đói nghèo để bao hàm cả những khía cạnh về năng
lực như Sen đã đề xuất. Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh cở bản
sau:
-Trứoc tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất được đo lường theo
một tiêu chí thích hợpvề thu nhập hoặc tiêu dùng
-Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ tiếu thốn về giáo
dục và y tế
-Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia
đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hoặc về sức khoẻ
-Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người
nghèo.
3.2 Thước đo đói nghèo
Để tính toán một thước đo đói nghèo, cần có ba yếu tố.Thứ nhất, cần lựa
chọn một tiêu chí nghiên cứu và chỉ số phản ánh phúc lời.Thứ hai, cần lựa
chọn một ngưỡng nghèo, đólà mức giới hạn mà cá nhân hay hộ gia đình
nằm dưới mức đó sẽ bị coi là nghèo.Cuối cùng, phải chỏna một thước đo
đói nghèo được sử dụng để phản ánh cho tổng thể hoặc một nhóm dân cư.
a).Xác định các chỉ số phúc lợi
Những khía cạnh cơ bản cuả đói nghèo được nên trên có thể chia làm
khía cạnh tiền tệ và phi tiền tệ. Khía cạnh tiền tệ của đói nghèo được phản
ánh chủ yếu qua mức chi tiêu bình quân đầu người, vị chỉ số này tổng hợp
được rất nhiều yếu tôd có thể làm cải thiện chất lượng cuộc sống, như chi
cho ăn uống, học hành,thuốc thang và các dịch vụ y tế.Ngoài ra, thước đo
chi tiêu còn bao gồm cả tính toán về “ giá trị sử dụng” hang năm của
những hàng hoá lâu bềnvà nhà ở
Các khía cạnh phi tiền tệ của đói nghèo được dùng để đo tình trạng thiếu
thốn về y tế, giáo dục, các mối quan hệ xã hội, sự bất an, kém tự tin hay
thiếu quyền lực…Trong một số trường hợp, có thể ước tính giá trị của các

bộ phận dân cư có mức sống cách xa dưới mức tối thiểu, phải đói ăn chịu
đứt bữa theo những thời gian nhất định.
Trên bình diện quốc tế, để tiện so sánh mức độ đói nghoè giữa các nước,
NHTG đã tính toán để ngưỡng nghèo tuyệt đối quốc tế cho các nước thu
nhập thấp( có GNP trên đầu người từ 755 đô la/năm trở xuống, tính theo
giá năm 1999) kà 1 đo la/ngày và cho các nước thu nhập trung bình
thấp(GNP trênm đầu người theo giá năm 1999 từ 756-2.966 đô la/năm) là
2 đô la/ngày. Để đảm bảo tính so sánh được giữa các nước, những
ngưỡng nghẽo này được tính theo ngang giá sức mua.Theo cách tính này,
với mặt bằng giá cả của Mỹ hiện nay cao gấp khoảng 5 lần so với ở Việt
Namthì chỉ cần khoảng 20 xem ở Việt Nam là mua được một hang hoá
giá trị tương đương với 1 đô la ở Mỹ.Do đó, hai ngưỡng nghèo quốc tế
trên khi quy đổi ra điều kiện của Việt Nam thì nó tương đương vói các
ngưỡng 20xen và 40 xen một ngày.Theo báo cáo của NHTG năm 2003, tỉ
lệ dân số sống dưới mức 1đôla/ngay theo ngang giá sức mua ở Việt Nam
là ,9%, 14,6% và Ấn Độ 34,7% .Như vậy, từ năm 1993 đến 2002, tỉ lệ
dân số sống dưới ngưỡng nghèo quốc tế 1 đôla/ngày ở nước ta đã giảm
2/3, một thành tích hết sức to lớn so với bình diện chung của thế giới.
c). Các thước đo đói nghèo thông dụng
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, có thể tính toán một số thước đo để
mô tả qui mô, độ sâu và có độ nghiêm trọng của đói nghèo. Ba thước đo
thông dụng nhất phản ánh các khía cạnh đó lần lượt là chỉ số đếm đầu
( hay còn gọi là tỉ lệ đói nghèo), khoảng nghèo và bình phương khoảng
nghèo.Ba thước đo đó đều có thể được tính bằng công thức chung như
sau:
α
α




tất cả mọi người trong dân cư.Khoảng nghèo được tính là tổng các mức
thiếu hụt của tất cả người nghèo trong nền kinh tế.Nó cho biết chi phí tối
thiểu để đưa tất cả người nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng
nghèo, trong điều kiện mọi khoản chuyển giao đều được chuyển đến đúng
đối tượng.
Khi α = 2, ta có chỉ số bình phương khoảng nghèo.Chỉ số này thể hiện
mức độ nghiêm trọng ( hay cường độ) của đói nghèovì nó đã làm tăng
thêm trọng số cho những nhóm người có khoảng nghèo lớn hơn trong số
những người nghèo ( túc là tăng thêm trọng số cho những nhóm nghèo
nhất trong dân số).
4.Tăng trưởng kinh tế và vấn đề phúc lợi xã hội
4.1.Tăng trưong kinh tế, thu nhập bình quân tăng lên mà đời sống nhân
dân không được cải thiện
Tăng trưởng kinh tế để cải thiện đời sống nhân dân là mục đích mà chính
phủ một số nước theo đuổi, song không phải tất cả các nước, chính phủ
đều theo đuổi mục tiêu này.Những mục tiêu ưu tiên khác nhau trong phát
triển kinh tế không có nghĩa là các nguyên nhân làm cho tăng trưởng kinh
tế là nâng cao thu nhập của mọi gia đình người dan…Những nguyên nhân
đó là : thứ nhất trong một số trường hợp chính phủ muốn tăng thêm sức
mạnh quân sự, hoặc danh tiếng của đất nước và danh tiếng của các tập
đoàn cai trị mà đã đầu tư vào hệ thống quân sự hoặc các dự án to lớn
trong rừng rậm, trên sa mạc, đât là những đầu tư đưa lại ít lợi ích trực tiếp
cho những người dân.Thứ hai, do các nguồn lực khan hiếm để tạo ra sự
tăng trưởng tiếp theo, do vậy một bộ phận lớn thu nhập được dùng để tái
đầu tư.Nếu quá trình này tiếp tục trong một thời gian dài thì không những
không nâng cao được đời sống nhân dân mà trái lại còn làm cho mọi tiêu
dùng giảm sút, mặc dù vẫn tạo ra được sự tăng trưởng kinh tế.Thứ ba, khi
thu nhập và tổng quỹ tiêu dùng tăng lên nhưng những người giàu có lại
nhận được toàn bộ hoặc phần lớn phần tăng thêm này.Dẫn đến tình trạng
người giàu sẽ giàu thêm, còn người nghèo lại nghèo đi.Như vậy,có thể dễ

yếu.Qúa trình phân phối lại thường được thực hiện qua thuế, trợ cấp và
chi tiêu công cộng của chính phủ nhằm giảm bớt mức thu nhập của người
giàu và nâng cao mức thu nhập của người nghèo.Nhưng đây không phải
là hình thức cơ bản để nâng cao thu nhập của đại bộ phận nhân dân.
5.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xoá đói giảm nghèo
5.1Xoá đói giảm nghèo là yếu tố đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm
vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự
nghèo,giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã
hộigiầmnhj, công bằng, dân chủ, văn minh.
Xoá đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra đọng lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự
vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ
giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều
khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối
đồng đều cho phát triển , tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo
đảm sự ổn định cho giai đoạn “ cất cánh”.
Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu cuat tăng
trưởng(cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện
( tiền đề)cho tăng trưởng nhanh và bền vững.Trên phương diện nào đó,
xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội
cho chương trinhg xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng
trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài
hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại là tiền đề cho tăng trưởng nhanh
và bền vững.Tình hình cũng giống nhưviệc thực hiện người cày có ruộng
ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp.Nhiều
nông dân nhờ đó đã thoát ra khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực
hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp
5.2 Xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế trên diện

đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình,
hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, nhà nước có vai
trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng
đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội
Chương 2 Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status