MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG TỈNH PHÚ THỌ - Pdf 26

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
MỤC LỤC
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng ..................................................... 3
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng .................................................... 63
CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG TỈNH PHÚ THỌ .................................................................................... 74
Thứ hai, về xử lý những phát sinh ........................................................................ 85
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHCT: Ngân hàng Công thương
TSCĐ: Tài sản cố định
TSNH: Tài sản ngắn hạn
TSDH: Tài sản dài hạn
TSĐB: Tài sản đảm bảo
TG: Tiền gửi
TGTK: Tiền gửi tiết kiệm
TCKT: Tổ chức kinh tế
CV: Cho vay
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
XLRR: Xử lý rủi ro

Bảng 7: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với thành phần DNQD
Bảng 8: Cơ cấu cho vay ngắn hạn đối với các DNNQD
Bảng 9: So sánh cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp giữa các năm
Bảng 10: Vòng quay vốn ngắn hạn của ngân hàng
Bảng 11: Dư nợ ngắn hạn quá hạn đối với doanh nghiệp từ 2006 – 2008
Bảng 12: Nợ xấu cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp năm 2006-2008
Bảng 13: Mức sinh lời của đồng vốn cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp
từ 2006 – 2008
Bảng 14: Tỷ lệ thu nhập tư cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp so với
tổng thu nhập của ngân hàng từ 2006 – 2008.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), cho vay là
hoạt động chủ yếu. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại đã
mở rộng cho vay trung và dài hạn, song cho vay ngắn hạn vẫn luôn là hoạt
động chủ đạo, đặc biệt là đối với thị trường ngân hàng – tài chính Việt Nam.
Trong cho vay ngắn hạn, việc mở rộng quy mô cho vay không thể tách
rời việc nâng cao chất lượng cho vay. Do đó, nâng cao chất lượng cho vay là
yêu cầu cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM, là yêu cầu của
nền kinh tế.
Tại chi nhánh ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ, do đặc trưng là ngân
hàng phục vụ cho công nghiệp và thương mại nên cho vay ngắn hạn nói
chung và cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp nói riêng là khoản mục cho
vay có tỉ trọng lớn nhất. Từ những vấn đề trên, em đã chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại chi nhánh ngân hàng

không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong có được ý kiến đóng góp và chỉ bảo
của các thấy cô để bài viết hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô!
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
2
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
CHƯƠNG I
CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là tổ chức tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong
việc khơi nguồn vốn đến những người vay tiền có các cơ hội đầu tư sinh lời,
đảm bảo cho nền kinh tế vận động nhịp nhàng hữu hiệu. Để hiểu được hoạt
động của ngân hàng trước hết cần xem xét “Bản quyết toán tài sản của ngân
hàng” –đó là bản kê các tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng và đặc trưng
của nó là:
“Tổng tài sản có =Tài sản nợ +Vốn”
Tài sản nợ bao gồm:
*Các khoản tiền gửi có thể phát séc: là loại tiền gửi có thể được thanh
toán theo yêu cầu.
*Các khoản tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi
kỳ hạn, đây có thể nói là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, những
người sở hữu chúng không được quyền phát séc và cũng không được hưởng
nhiều dịch vụ như tiền gửi phát séc, nhưng được hưởng mức lãi suất cao hơn.
*Các khoản tiền ngân hàng đi vay từ NHNN, từ dân cư, từ các doanh
nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác, vay Chính phủ và vay nước ngoài…
Vốn của ngân hàng là của cải thực có của ngân hàng đó. Vốn hình thành

ngân hàng v.v
Như vậy, cho vay là hoạt động quan trọng nhất trong việc thu lợi nhuận
cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động này không thuộc về độc quyền của ngân
hàng, hiện nay, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh của
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
4
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
các tổ chức tài chính khách như các công ty chứng khoán, các công ty bảo
hiểm… Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ mà bắt nguồn
từ sự sụp đổ của một số tổ chức tài chính lớn của Mỹ, câu hỏi được đặt ra cho
mỗi chúng ta là phải hiểu thế nào về hoạt động và chất lượng cho vay của các
NHTM.
1.1.1. Khái niệm cho vay
Theo quan điểm của Frederici S.Mishkin trong cuốn “Tiền tệ, ngân hàng
và thị trường tài chính”, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán tài sản nợ
có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng
tiền mua được để mua những tài sản có một số đặc tính khác, và trong hoạt
động cho vay, tài sản có này chính là tiền cho vay. Như vậy, các ngân hàng đã
cung cấp dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công
chúng, và cho vay là một trong những sản phẩm dịch vụ đó.
Theo các văn bản hiện hành liên quan tới hoạt động tín dụng của các
NHTM, cho vay là một nghiệp vụ tín dụng, theo đó, ngân hàng cho vay giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất
đình theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Cho vay là hoạt động thông qua sự thỏa thuận giữa bên đi vay và bên cho
vay dựa trên các phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án kinh doanh do
bên đi vay trình cho bên cho vay, bên cạnh đó các khoản vay còn được đảm

từng nhu cầu vốn cụ thể.
- Cho vay các tổ chức tài chính khác (ngân hàng, công ty tài chính, quỹ
tín dụng…): Là hoạt động cho vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh
khoản hoặc thanh toán liên ngân hàng.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
6
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá
nhân – người tiêu dùng với các mục đích mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc
kinh doanh.
1.1.2.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Theo mục đích vốn vay được sử dụng, cho vay bao gồm:
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng
cho mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá
nhân, các hộ gia đình hoặc các tổ chức kinh tế, trong đó chủ yếu là các tổ
chức kinh tế.
- Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho
mục đích tiêu dùng. Đối tượng chủ yếu vay tiêu dùng là các cá nhân (vay để
mua tài sản) và Chính phủ (vay cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên).
1.1.2.3. Theo phương thức cho vay
Về phương thức, cho vay có thể bao gồm các loại chính như sau:
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng
không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hay mở
rộng sản xuất mới xin vay. Mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng lại
thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay mà ngân hàng
và khách hàng thoả thuận một hạn mức về số dư trong suốt kỳ hoặc số dư

vay của ngân hàng.
Theo thời hạn, cho vay được phân loại thành:
- Cho vay không có thời hạn: Là hình thức cho vay mà việc vay – hoàn
trả của khách hàng là thường xuyên, theo kế hoạch luân chuyển hàng hoá và
kế hoạch doanh thu của khách hàng, không xác định cụ thể thời điểm trả nợ
trên hợp đồng tín dụng.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
8
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
- Cho vay có thời hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn thu hồi nợ được
xác định cụ thẻ trong hợp đồng tín dụng. Cho vay có thời hạn được phân chia
thành:
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12
tháng
+ Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ trên
12 tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ 60
tháng trở lên.
Thông thường, hai hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được ghép
thành cho vay trung và dài hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu là hình thức cho vay ngắn hạn.
1.1.2.5. Các căn cứ khác
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là việc cho vay mà ngân hàng yêu
cầu người vay phải có tài sản hợp pháp đảm bảo cho khoản vay. Tài sản này
chính là nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng. Đó có thể là tài sản để thế

sản xuất – kinh doanh. Như vậy, để hiểu rõ về việc ngân hàng cho vay ngắn
hạn đối với doanh nghiệp và phân biệt được với cho vay trung – dài hạn,
chúng ta sẽ xem xét về khái niệm “vốn ngắn hạn” và “vốn trung – dài hạn”
của doanh nghiệp.
Trước hết, vốn của doanh nghiệp được biểu hiện là giá trị của toàn bộ tài
sản do doanh nghiệp quản lý và sử dụng tại một thời điểm nhất định. Mỗi
đồng vốn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định. Tiền tệ là hình thái vốn ban
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
10
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
đầu của doanh nghiệp, nhưng chưa hẳn có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng
tiềm năng của vốn, để biến tiền thành vốn thì tiền phải đưa vào sản xuất kinh
doanh với mục đích sinh lời. Như vậy, vốn là lượng giá trị ứng trước của toàn
bộ tài sản mà doanh nghiệp kiểm soát để phục vụ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh nhằm thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Vốn trong họat
động sản xất kinh doanh được tồn tại dưới hai hình thức là vốn ngắn hạn và
vốn trung – dài hạn, hay còn gọi là vốn lưu động và vốn cố định.
“Vốn ngắn hạn” được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp chính là tài sản lưu
động và đầu tư ngắn hạn theo chuẩn mực kế toán cũ trước đây. Tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận là tài sản ngắn hạn trong sản
xuất và tài sản ngắn hạn trong lưu thông. Tài sản ngắn hạn trong quá trình sản
suất là những vật tư dự trữ nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu… và sản phẩm dở
dang trong quá trình sản xuất. Tài sản ngắn hạn trong lưu thông bao gồm sản
phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán, các
khoản phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước… Có thể phân biệt vốn ngắn hạn
theo hai tiêu chí:

ngắn hạn…), các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm
ứng…).
“Vốn trung – dài hạn” của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản trung – dài hạn của doanh nghiệp. Giống như tài sản ngắn hạn,
tài sản dài hạn chính là tài sản cố định và đầu tư trung – dài hạn của doanh
nghiệp theo chuẩn mực kế toán cũ. Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm
các khoản đầu tư dài hạn, các khoản tạm ứng dài hạn, tài sản cố định hữu hình
(nhà cửa, máy móc, trang bị, thiết bị…), tài sản cố định vô hình (công nghệ
dây chuyền sản xuất, bản quyền chế tạo, thương hiệu của doanh nghiệp)… đó
là những tài sản có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
12
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng chỉ dùng nguồn vốn
ngắn hạn để tài trợ cho TSNH cũng như chỉ dùng nguồn dài hạn tài trợ cho
TSDH. Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp, các ngân hàng cho vay
đối với doanh nghiệp –đây là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu
của doanh nghiệp. Các NHTM cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp trong
các trường hợp sau:
*NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản lưu động:
Ngân hàng thương mại thường chia các khoản cho vay của mình thành
cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Tùy thuộc vào nhu cầu và
nguyện vọng vay của khác hàng mà sẽ chọn thời hạn phù hợp nhất với mình.
Theo sự phân chia thời hạn thì những món vay dưới 1 năm được xếp vào món
vay ngắn hạn, nó phù hợp với trường hợp tài trợ cho tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Các trường hợp cụ thể là:
- Nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất và kinh doanh,

toán. Trong quá trình thanh toán sẽ có một yếu tố rất quan trọng, đó là yếu tố
thời gian. Chính điều này nảy sinh nhu cầu vốn đối với nhà xuất khẩu. Ngân
hàng bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu đều có thể thực hiện tài trợ ngắn hạn
cho nhà xuất khẩu.
+ Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia xuất nhập khẩu chấp nhận có hối
phiếu kỳ hạn không hủy ngang, khi chưa đến hạn thanh toán nhà xuất khẩu có
thể mang hối phiếu này đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu.
+ Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ
Hình thức tín dụng của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ
trước khi đến hạn thanh toán.
+ Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
14
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
Dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu, khách
hàng có thể đề nghị được cung cấp tín dụng giữa chừng trong khuôn khổ
“clean payment” (thanh toán trơn).
+ Bao toàn bộ thanh toán xuất khẩu – Factoring
Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là nghiệp
vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. NHTM lớn tiến hành lập
các công ty chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ này.
- NHTM cho vay ngắn hạn đối với mục đích tiêu dùng của cá nhân,
doanh nghiệp.
Hình thức tín dụng này trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng
trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Loại nghiệp vụ này
giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cá nhân và giúp các doanh

kiệm được thời gian cho doanh nghiệp trong khâu xét duyệt xin vay, khâu ký
kết hợp đồng và quá trình giải ngân. Như vậy, xin vay ngắn hạn trong trường
hợp này còn tiết kiệm được cả chi phí cơ hội, mà trong kinh doanh, tuy đây là
chi phí không nhìn thấy, nhưng có thể quyết định đến thành công hay thất bại
của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói cho vay ngắn hạn không chỉ là phương thức tài trợ
chủ yếu đối với tài sản lưu động, mà còn là một giải pháp hiệu quả trong việc
tài trợ tài sản cố định.
1.2.2. Các hình thức cho vay ngắn hạn chủ yếu
1.2.2.1. Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội (vượt) trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
16
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời hạn thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá
trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt
quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán
ngân quĩ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản.

soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
1.2.2.3. Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì.
Đó là số dư tính tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng các hạn
mức tín dụng đối với các doanh nghiệp căn cứ vào phương án sản xuất kinh
doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỉ lệ cho vay tối đa trên tổng giá trị
tài sản đảm bảo, khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ
không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy
định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến
cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm bớt dư nợ cuối kì không được vượt
quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
18
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
vay. Sau khi kỉêm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ
phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các

theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của
người vay.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có
quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay
chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu
vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
1.3. Chất lượng cho vay ngắn hạn
1.3.1. Quan niệm về chất lượng cho vay ngắn hạn
Quan điểm về chất lượng cho vay cũng như chất lượng cho vay ngắn hạn
trước đây chỉ được giới hạn trong phạm vi an toàn cho vay, phản ánh tổn thất
phát sinh từ những rủi ro cho vay. Chất lượng cho vay ngắn hạn được coi là
cao khi các khoản vay ngắn hạn không có tổn thất hoặc có tổn thất nhưng chỉ
trong giới hạn nhất định, và ngược lại khi tổn thất là lớn thì chất lượng cho
vay ngắn hạn được coi là thấp. Chính vì thế, khi nói đến khía cạnh nâng cao
chất lượng ngắn hạn cho vay thì người ta thường nghĩ ngay đến việc giảm
những tổn thất trong quá trình cho vay ngắn hạn.
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
20
Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: ThS. Nguy
ễn Đức Hiển
Tuy nhiên, những chủ thể tham gia vào trong một món vay phải gồm hai
bên: một bên là bản thân ngân hàng –bên cấp vốn, bên còn lại là khách hàng
vay vốn – bên sử dụng vốn, ngoài ra còn có cơ quan quản lý Nhà nước. Chính
vì vậy, chất lượng cho vay phải được hiểu rộng hơn chứ không chỉ bó hẹp
trong phạm vi xem xét tổn thất từ phía ngân hàng.
Một hoạt động cho vay được coi là có hiệu quả khi nó đáp ứng được các

chấp hành pháp luật của Nhà nước, cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng, các
quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và ngân hàng Nhà nước
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Trên cơ sở quy chế cho vay của NHTM, hoạt động cho vay ngắn hạn có
chất lượng luôn phải tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay. Từ
những đặc điểm riêng có của mình, hầu hết các ngân hàng đều nghiên cứu và
đưa ra các quy chế cho vay phù hợp nhất. Cụ thể là các ngân hàng đưa ra các
khái niệm, quy định, các quy trình và các hướng dẫn cụ thể dành cho các cán
bộ ngân hàng. Các quy định trong quy trình cho vay được áp dụng cụ thể cho
từng trường hợp xin vay ở mỗi NHTM là nhằm thực hiện việc cho vay có chất
lượng. Do vậy việc tuân thủ những quy trình là tiền đề của chất lượng cho
vay.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay, khi tiến hành hoạt động cho vay, ngân
hàng và khách hàng sẽ lập nên một hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín
dụng sẽ quy định chi tiết về các yếu tố quan trọng như thời hạn vay, mục đích
sử dụng, số tiền vay, phương thức trả nợ, trả lãi... và được thể hiện ở dạng
những cam kết. Một khoản vay được coi là có chất lượng khi nó được thực
hiện đúng những cam kết đã kí trong hợp đồng tín dụng. Nếu một khoản vay
mà ngay từ mục đích vay vốn khách hàng đã không tuân thủ theo đúng cam
kết thì khoản vay đó không được coi là có chất lượng. Hoặc khoản vay mà
Nguyễn Thị Nga Lớp TCDN 47A
22

Trích đoạn Định hướng hoạt động cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp tại ngân hàng công thương tỉnh Phú Thọ Tạo nguồn vốn ổn định Mở rộng mạng lưới huy động vốn đến các địa bàn mới, không chỉ mở mới thêm mà còn phải tăng quy mô của mỗi quỹ tiết kiệm trên địa bàn: Đặc Đa dạng hoá phương thức cho vay ngắn hạn Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status