Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 4 nắm vững từ loại trong phân môn Luyện từ và Câu - Pdf 26

A: ĐẶT VẤN ĐỀ.
Giáo dục bậc tiểu học là một hệ thống khoa học rất khó. Nó là nền móng đầu tiên
để giúp con người tồn tại và phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt là môn Tiếng
Việt. Bởi thế, Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và
đời sống của mỗi con người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã
hội, văn hoá giáo dục nói chung đã dẫn tới những yêu cầu đổi mới trong việc dạy
Tiếng Việt trong nhà trường. Chương trình môn Tiếng Việt trong các hệ thống
chương trình môn học của chương trình mới được ra đời nhằm đáp ứng các yêu cầu
nói trên.Vậy chương trình môn Tiếng Việt tiểu học có tác dụng mạnh mẽ trong giáo
dục mĩ cảm, giúp học sinh được rèn luyện, phán đoán, nghi ngờ. Đặc biệt là trong
những năm gần đây nghành đã tổ chức thi Giao lưu Tiếng Việt của chúng em cho
học sinh dân tộc vùng khó khăn để học sinh được giao tiếp và phát triển vốn Tiếng
việt cho các em.
Chính vì vậy dạy Tiếng Việt trong đó có phân môn Luyện từ và câu nhất là các
từ loại thông qua hoạt động giao tiếp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Và để đạt được
mục tiêu đề ra phân môn Luyện từ và câu có các nhiệm vụ sau:
1. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
a/ Làm giàu vốn từ cho học sinh và phát triển năng lực dùng từ đật câu của các em.
- Dạy nghĩa từ: Làm cho học sinh nắm nghĩa từ bao gồm việc thêm vào vốn từ của
học sinh những từ mới và những nghĩa mới của từ đã biết, làm cho các em nắm được
tính nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ. Dạy từ ngữ phải hình thành những khả
năng phát hiện ra những từ mới, từ có giàu hình ảnh từ chưa biết trong văn bản tiếp
nhận, nắm một số thao tác giải nghĩa từ, phát hiện ra những nghĩa mới của từ đã
biết, làm rõ những sắc thái nghĩa khác nhau của từ trong những ngữ cảnh khác nhau.
- Hệ thống hoá vốn từ: Dạy cho học sinh biết cách sắp xếp các từ một cách có hệ
thống trong trí nhớ của mình để tích luỹ từ được nhanh chóng và tạo ra tính thường
trực của từ, tạo điều kiện cho các từ đi vào hoạt động lời nói được thuận lợi. Công
việc này được hình thành ở học sinh kĩ năng đối chiếu từ trong hệ thống hàng dọc
của chúng, đặt từ trong hệ thống liên tưởng cùng chủ đề, đồng nghĩa, gần nghĩa, trái
nghĩa, đồng âm, cùng cấu tạo , tức là kĩ năng liên tưởng để huy động và tích góp
vốn từ.

B. NỘI DUNG.
I . THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1: Phân môn Luyện từ và Câu Lớp 4.
1. Chương trình và sách giáo khoa.
* Chương trình môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có các ưu điểm sau:
- Chương trình môn Tiếng Việt đã thực sự chú trọng cả 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc,
viết cho HS. Đặc biệt là chương trình rất chú trọng việc hướng dẫn HS vào hoạt động
giao tiếp. Tạo điều kiện để HS phát triển các kĩ năng và vận dụng thực hành các kĩ
năng vào cuộc sống.
* SGK là tài liệu dạy học chính thức trong nhà trường, được điều chỉnh nhiều lần
để đảm bảo tính thể hiện nguyên lí giáo dục, nội dung chương trình và phương pháp
2
dạy học mới. Vậy chương trình và SGK lớp 4 được phân bố như sau: Đối với phân
môn Luyện từ và Câu gồm: 62 tiết (32 tiết học kì 1- 30 tiết học kì 2) bao gồm các nội
dung sau:
+ Mở rộng vốn từ: 19 tiết.
+ Tiếng, cấu tạo từ: 5 tiết.
+ Từ loại: 9 tiết.
+ Câu: 26 tiết.
+ Dấu câu: 3 tiết.
Riêng về phần từ loại: phần này cung cấp một số kiến thức sơ giản về các từ loại
cơ bản của Tiếng Việt nhưng nó rất quan trọng và quyết định cho việc giao tiếp của
mọi người, và việc giao tiếp trong xã hội:
+ Danh từ: 5 tiết( tuần 5,6,7,8 gồm cả cách viết hoa danh từ riêng).
+ Động từ: 2 tiết ( tuần 9,11).
+ Tính từ: 2 tiết ( tuần 11,12).
Thông qua các bài tập:
+ Nhận diện từ theo từ loại.
+ Phân loại từ theo cấu tạo.
+ Luyện sử dụng từ.

dấu gạch ngang dẫn đến các em phát âm sai, viết sai.
VD: Bài tập2- Cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài - SGK-TV4-tập1- trang 78.
+ Về Giáo viên:
- Thời lượng dạy một bài về từ loại ở Tiểu học quá ít mà yêu cầu lại quá cao như
việc nhận diện từ loại về danh từ, động từ, tính từ trong một văn bản, phân biệt được
các tiểu từ loại. Đây là khó khăn lớn cho GV trong việc lựa chọn các phương pháp
dạy học.
- GV nhiều khi cũng còn lúng túng khi hiểu và phân biệt các tiểu từ loại, do vậy
việc truyền thụ kiến thức cho HS còn gặp nhiều khó khăn.
2. Thực trang.
a. Đặc điểm tình hình chung.
Trường tôi dạy thuộc trường nằm ở vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn của
huyện Quỳ Hợp. Người dân trong xã phần đa là dân tộc thiệu số chủ yếu sống bằng
nghề nông. Do vậy, đời sống của nhân dân gặp nhiếu khó khăn thiếu thốn, số học
sinh thuộc hộ nghèo ở trong trường chiếm tỉ lệ rất. Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp
đến việc hoàn thành mục tiêu giáo dục mà cấp học đã đề ra.
b/Về giáo viên:
- Giáo viên có trình độ đạt trện chuẩn, đã nắm được những kiến thức cơ bản, có
nghiệp vụ sư phạm, chịu khó đổi mới phương pháp, linh hoạt trong hoạt động dạy
4
hoc, yêu nghề mến trẻ. Đây là điều kiện tốt để nâng cao chất lượng dạy học đẻ giúp
học sinh nắm vững các từ loại trong phân môn Luyện từ và Câu.
- Công tác chuẩn bị và dạy học trên lớp:
+ GV lên lớp có bài soạn đầy đủ, thiết kế được các hoạt động dạy - học của thầy và
trò. Trong giờ dạy đã tạo được giờ dạy nhẻ nhàng, linh hoạt.
c/ Về học sinh:
Học sinh lớp tôi dạy hầu hết là học sinh dân tộc Thái, học sinh hộ nghèo chiếm
phần đa. Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, điều đó ảnh hưởng lớn đến việc học
tập của học sinh. Chất lượng học sinh còn thấp. Tiếng mẹ đẻ cũng có phần hạn chế
trong việc học Tiếng Việt của các em. Vốn ngôn ngữ của các em không phong phú,

việc truyền thụ kiến thức cho HS còn gặp nhiều khó khăn.
- GV chỉ truyền đạt giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong SGK và SGV, Giáo
viên chưa tập trung thời gian và trí tuệ vào việc soạn bài và đồ dùng dạy học, chưa
linh động sáng tạo, cải tiến nội dung và phương pháp dạy học để phù hợp với đối
tượng học sinh, các hoạt động dạy học chưa phù hợp, đơn điệu nghèo nàn kết quả
dạy học chưa cao.
Với những nguyên nhân trên, Tôi nhận thấy rằng hoàn cảnh, điều kiện cũng như
đặc điểm ngôn ngữ của học sinh đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học.
Bên cạnh đó, chương trình SGK lại dùng chung cho cả nước nên không tránh khỏi
những bài tập còn khó so vói trình độ chung của học sinh ở địa phương, đòi hỏi
người giáo viên trong quá trình dạy học phải có biện pháp, cách tháo gỡ giúp học
sinh đạt được mục tiêu của chương trình.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1/ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
a. Cơ sở ban đầu:
Để làm được việc này giáo viên không nên chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài
liệu có sẵn trong SGK, SGV, sách thiết kế. Không làm việc máy móc và ít quan tâm
đến khả năng sáng tạo của học sinh. Không nên để học sinh học tập một cách thụ
động chủ yếu là nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu. Vì thế ít học sinh hứng
thú học tập. Năng lực và vốn có của cá nhân học sinh, giáo viên cần tạo điều kiện để
học sinh có cơ hội phát triển.
Tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu những khó khăn và tìm cách tháo gỡ từng bài trong
từng tiết dạy nhất là thời gian ở phần luyện tập để học sinh hiểu được, tìm ra, nhận
diện, phân biệt được các kiểu từ loại một cách dễ dàng.
Như vậy muốn tìm, nhận diện, phân biệt được danh từ, động từ, tính từ trước hết
học sinh phải:
+Vạch được danh giới từ.
+ Nhận diện các danh từ, động từ, tính từ.
+ Phân biệt các tiểu từ loại.
6

7
Một điểm nổi bật trong đạo đức của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là Lòng Thương
người Chính vì vậy thấy nước mất nhà tan mà Người đã ra đi học tập kinh
nghiệm của cách mạng thế giới để giúp đồng bào.
Bài tập 2: Đặt câu với một danh từ vừa tìm được.
b) Khó khăn:
Theo tôi ở phần bài tập này có 2 bài tập khó, đó là bài tập 1 và bài tập2.
* Cái khó ở bài tập 1 là: HS nắm chưa chính xác về danh từ chỉ khái niệm, các em
còn nhầm lẫn giữa danh từ chỉ khái niệm với danh từ chỉ đơn vị.
* Cái khó ở bài tập 2 là: HS phải đặt câu để phân biệt danh từ chỉ khái niệm với
các danh từ khác, trong khi chưa xác định được danh từ chỉ khái niệm.
c) Cách tháo gỡ:
* Ở bài tập 1:
+ Giáo viên cần củng cố cho HS khái niệm về danh từ chỉ khái niệm là:
- Sau khi học sinh làm xong bài tập 1 ở phần luyện tập cho học sinh nhắc lại khái
niệm về danh từ chỉ khái niệm danh từ chỉ đơn vị để vận dụng thục hành cũng là để
khắc sâu cho những em chưa nắm được. Sau đó giáo viên chữa bài cho học sinh.
+ HS hay nhầm lẫn giữa danh từ chỉ khái niệm với danh từ chỉ đơn vị.Vì vậy giáo
viên giúp HS phân biệt danh từ chỉ khái niệm với danh từ chỉ đơn vị:

Danh từ chỉ khái niệm Danh từ chỉ đơn vị
- Danh từ chỉ khái niệm là những danh - Là những từ Chỉ đơn vị các sự vật như :
từ gồm các từ không chỉ vật thể, các Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên, đơn vị đo
chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể, lường, đơn vị tập thể, đơn vị thời gian,
mà biểu thị các khác khái niệm cụ thể đơn vị hành chính tổ chức.
Ví dụ: Cuộc đời; sự nghiệp; thiên nhiên Ví dụ: Lạng, Con, tháng, buổi, trung
đội, đại đội

Khi các em đã hiểu và phân biệt được giữa danh từ chỉ khái niệm với danh từ chỉ
đơn vị thì các em sẽ tìm được các danh từ chỉ khái niệm có trong đoạn văn.

+ Chỉ hoạt đông của anh chiến sĩ hoạc của thiếu nhi.
+ Chỉ trạng thái của sợ vật.
- Dòng thác.
- Lá cờ.
* Phần 2: Ghi nhớ :
9
* Phần 3: Bài tập
Mục Tiêu của bài tập này là giúp học sinh nắm được ý nghĩa của động từ: là từ
chỉ hoạt động, trạng thái của người, sự vật, hiện tượng. Nhân biết động từ trong đoạn
văn. Nêu tên các hoạt động trạng thái được bạn thể hiện bằng cử chỉ động tác không
lời thông qua trò chơi: Xem kịch câm.
Bài tập 1: Viết tên các hoạt động em thường làm hằng ngày ở nhà và ở trường. Gạch
dưới động từ trong cụm từ chỉ hoạt động ấy.
- Các hoạt động ở nhà. Mẫu: Quét nhà
- Các hoạt động ở trường. Mẫu: Làm bài
Bài tập2: Gạch dưới các động từ trong các đoạn văn sau:
a.Yết kiêu đến kinh đô Thăng Long Yết kiến vua Trần Nhân Tông :
- Nhà vua: Trẩm cho nhà ngươi nhận lấy một loại binh khí.
- Yết kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt.
- Nhà vua: Để làm gì?
- Yết kiêu: Để dục thủng chiến thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới
nước.
b. Thần Đi-ô-ni-dốt mỉm cười ưng thuận.
Vua Mi-đát thử bẻ một cành sồi, cành đó liền biến thành vàng. Vua ngắt một quả
táo, quả táo cũng thành vàng nốt. Tưởng không có ai trên đời sung sướng hơn thế
nữa!
Bài tập 3: Trò chơi: Xem kịch câm: Nói tên các hoạt động trạng thái được bạn thể
hiện bằng cử chỉ, động tác không lời.
a. Khó khăn :
Theo tôi ở phần này có hai bài tập khó đó là bài tập 2 và bài tâp 3.

Qua trò chơi này giáo viên củng cố cho học sinh thấy động từ là một loại từ được
dùng nhiều trong nói và viết.
3) Bài: Luyện tập về động từ Tuần 11(SGK trang 106). Đây là dạng bài thực
hành.
a) Nội dung bài học gồm 3 bài tập.
* Mục đích của các bài tập là giúp học sinh nắm được các động từ thường được
một nhóm các từ bổ sung ý nghĩa về thời gian. Đó là các từ: đã, sẽ, đang, sắp, chưa.
Bước đầu biết sử dụng các từ nói trên.
Bài tập 1: Các từ in đậm dưới đậy bổ sung ý nghĩa cho từ nào? Chúng bổ sung ý
nghĩa gì?
-Trời ấm lại pha lành lạnh. Tết xắp đến.
( Tô Hoài )
11
- Rặng đào đã trút hết lá .
Bài tập 2:
Em hãy chọn từ trong ngoặc đơn( đã, đang, sắp , ) để điền vào chỗ trống?
a. Mới dạo nào những cây ngô còn lấm tấm như mạ non. Thế mà ít lâu sau, ngô
thành cây rung rung trước gió và ánh nắng.
b. Sao cháu không về với bà
Chào mào hót vườn na mỗi chiều
Sốt ruột bà nghe chim kêu
Tiếng chim rơi với rất nhiều hạt na
Hết hè, cháu vẫn xa
Chào mào vẫn hót vườn na tàn.
Lê Thái Sơn
Bài tập 3: Trong truyện vui sau có nhiều từ chỉ thời gian dùng không đúng. Em hày
chữa lại cho đùng bằng cách thay đổi các từ ấy hoặc bỏ bớt từ.
Đãng trí
Một nhà bác học đã làm việc trong phòng. bỗng người phục vụ đang bước
vào, nói nhỏ với ông:

” để học sinh hiểu được tính khôi hài của truyện là: nhà bác học đang tập trung làm
việc nên đãng trí tới mức nghĩ rằng trộm vào thư viện là cũng để đọc sách chứ không
lo nó ăn cắp đồ đạc quý giá.
- Dựa vào nội dung câu chuyện, giáo viên gợi ý HS xác định thời gian diễn ra các
hành động để chỉ ra các từ chỉ thời gian không đúng (đã, đang, sẽ).
- Trước hết GV giúp HS hiểu nghĩa các từ chỉ thời gian: đã, đang, sẽ.
+ Đang: biểu thị biết hoạt động tiếp tục diễn ra ngay lúc nói.
+ Sẽ: biểu thị hoạt động sẽ sảy ra trong thời gian xa.
+ Đã: biểu thị hoạt động hoàn thành rồi.
- Khi HS hiểu nghĩa các từ chỉ thời gian: đã, đang, sẽ thì các em sẽ sửa lại các từ
chỉ thời gian dùng không đúng trong truyện vui một cách thuận lợi.
Câu 1: Nhà bác học đã làm việc trong phòng.
+ Thay từ “đã ”bằng từ “đang” vì nhà bác học còn làm việc, chưa ra về. Công
việc chưa hoàn thành nên không dùng từ “đã”.
Câu 2: Bỗng người phục vụ đang bước vào, nói nhỏ với ông:
+ Xoá bỏ từ “đang”( đang bước vào) vì người phục vụ muốn nòi nhỏ với giáo sư
phải vào hẳn phòng và đến gần ông mới làm được việc đó. Sự việc đã sảy ra rồi nên
không thể dùng từ “đang”.
13
Câu3: Nó “sẽ” đọc gì thế?
+ Xoá bỏ từ “sẽ” ( sẽ đọc gì thế?) vì trộm vào thư viện rồi, đang lục lọi ở đó nên
phải bỏ từ “sẽ” hoặc thay nó bằng từ “đang”.
Trên đây là ba bài khó được tôi đưa ra từ thực tế trong quá trình dạy học. Từ
việc tìm hiểu và dạy học trực tiếp HS trong năm học qua, tôi đã nghiên cứu kĩ các
bài về từ loại và tìm ra được một số khó khăn trong khi dạy các bài về từ loại mà HS
đã gặp phải. Với sự vận dụng, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng dạy học của chương
trình, luôn bám sát mục tiêu và đối tượng HS của lớp mình. Tôi đã đưa ra cách tháo
gỡ khó khăn cho từng bài, nhằm tạo cơ sở cho việc dạy học phân môn Luyện từ và
Câu đạt hiệu quả cao hơn.
3. Bài soạn minh hoạ.

2.2 Tìm hiểu ví dụ:
- Gọi HS đọc phần nhận xét.
- Yêu cầu HS thảo luận trong nhóm để
tìm các từ theo yêu cầu BT.
- HS phát biểu ý kiến. HS khác nhận
xét và bổ sung.
GV: Kết luận lời giải đúng:
- Các từ nêu trên chỉ hoạt động , trạng
Hoạt động học
- HS đọc câu văn
- HS phân tích câu: Vua / Mi- đát / thử /
bẻ/ một / cành / sồi/, cành/ đó/ liền / biến
thành / vàng
Em đã biết:
Danh từ chung: Vua, một, cành, sồi, vàng.
Danh từ riêng: Mi - đát
- 2 HS nối tiếp đọc thành tiếng từng bài
tập.
- HS thảo luận nhón đôi, viết các từ cần
tìm ra vở nháp.
- HS phát biểu- nhân xét - bổ sung.
Các từ:
- Chỉ hoạt động của anh chiến sĩ hoặc
thiếu nhi: Nhìn, nghĩ , thấy
- Các từ chỉ trạng thái của sự vật :
+ Của dòng thác; đổ ( đổ xuống ).
15
thái của người, của vật.
- Đó là động từ. Vậy động từ là gì?
2.3 Ghi nhớ:

Từ chỉ trạng thái: Bay là là, bay vòng, yên
lặng, yên tỉnh
- 1 HS đọc thành tiếng. HS đọc thầm
- Hoạt động nhóm.
- HS ghi bài vào vở.
16
Bài tập 2: Gạch dưới động từ trong
đoạn văn sau:
GV: Gọi HS đọc yêu cầu và nội dung
BT
GV: Yêu cầu HS thảo luận nhóm đôi:
dùng bút ghi vào vở nháp.
- GV: Gọi HS trình bày, Các HS khác
theo dõi bổ sung ( nêu đúng, sai )
GV: Kết luận lời giải đúng.
Bài tập 3: Trò chơi xem kịch câm.
- GV: Gọi HS đọc yêu cầu bài tập:
- GV: Hướng dẫn cách chơi.
- GV: treo tranh minh hoạ, gọi HS lên
bảng chỉ vào tranh để mô tả trò chơi
Các hoạt động ở
nhà
Đánh răng; rữa
mặt; ăn cơm;
uống nước; đánh
cốc chén; trông
em,quét nhà;
tưới cây; tập thể
dục; nhặt rau, vò
gạo; nấu

- GV: Tổ chức cho cho từng lượt HS
thi.
- Nhân xét tuyên dương nhóm thực
hiện tốt.
3. Cũng cố - dặn dò :
- GV: Hỏi HS: Thế nào là động từ?
- Động từ được dùng ở đâu?
+ Bạn nữ: Làm động tác gối đầu vào tay,
mắt nhắm lại.
- Bạn Nam: đoán đó là hoạt động: Ngủ
- Từng nhóm 4 HS thay phiên nhau biểu
diễn các hoạt động ( HS có thể làm các cử
chỉ động tác dễ để đảm bảo bạn nào cũng
đoán được ).
Ví dụ:
* Các động tác trong học tập: Mượn bút;
mượn sách, thước kẻ, Đọc bài, viết bài
* Động tác vệ sinh thân thể hoạc môi
trường: đánh răng; rữa mặt; quét lớp; lau
bàn ghế;
* Các động tác vui chơi giải trí: Chơi cờ;
nhảy dây, kéo co, đá bóng, bơi
- 2 nhóm thi mỗi nhóm 5 HS.
- HS nhận xét nhóm bạn.
- HS trả lời.
C.KẾT LUẬN.
I. Kết quả khảo sát:
Với cách thiết kế bài giảng như trên, kết hợp với kinh nghiệm dạy một số bài khó
về từ loại đã nêu ở phần trên tôi đã trực tiếp dạy thử hai tiết:
+ Đối với tôi dạy theo HD SGV.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status