Khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Bình Thuận - Pdf 26


1

MỞ ĐẦU
Cơ sở khoa học và nhu cầu thực tiễn của đề tài
Hòa với xu thế của cả nước, Bình Thuận là một tỉnh đang thực hiện công
cuộc đổi mới, phát triển toàn diện dân sinh kinh tế, xây dựng nền tảng cơ sở vật
chất, kỹ thuật và hạ tầng đồng bộ, đẩy mạnh chuyển dòch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển vững chắc, hòa nhập vào sự phát triển chung của kinh
tế trọng điểm phía nam, thực hiện có kết quả mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Vốn đầu tư là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế, ở Việt Nam yếu tố về vốn đã đóng góp đến 45% tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Tỉnh Bình Thuận tuy có tốc độ phát triển kinh tế ở mức tương đối cao so
mức trung bình của cả nước, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của
tỉnh. Nằm ở cực Nam Trung Bộ, khu vực Duyên hải Miền Trung; giáp ranh với
các tỉnh miền Đông Nam Bộ, khu vực kinh tế trọng điểm và năng động của cả
nước, mức đầu tư xã hội vào Khu vực kinh tế trọng điểm phía nam chiếm trên
40% của cả nước. Tỉnh Bình Thuận có nhiều tiềm năng và lợi thế, song so với
các tỉnh trong khu vực như Đồng Nai, Bà Ròa Vũng Tàu, Bình Dương thì tốc độ
phát triển kinh tế vẫn còn kém xa.
Với quy mô nền kinh tế còn nhỏ bé, công nghiệp kém phát triển, công
nghệ lạc hậu; GDP của tỉnh năm 2005 chỉ ở mức trên 7.000 tỷ đồng (giá thực
tế); GDP bình quân đầu người chỉ đạt 400 USD, thấp hơn nhiều so với bình quân
cả nước là 640 USD. Do đó, tốc độ phát triển phải gia tăng với mức độ nhanh
hơn nữa mới bắt kòp và không bò tụt hậu so với cả nước và các tỉnh trong khu
vực.
Với mục tiêu và ý nghóa đó, cần phải phân tích, đánh giá một cách

Bình Thuận.
- Chương 3: Khơi thông nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế tỉnh
Bình Thuận. 3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ

1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VÀ VỐN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm đầu tư và vốn đầu tư
1.1.1.1 Khái niệm
Đầu tư theo nghóa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả
nhất đònh trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả
đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí
tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác …) và nguồn nhân
lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã
hội.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có
thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:

phát triển.
Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì
sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền
kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài
hạn.
Vốn (hay tư bản – capital) trong nền kinh tế tại một thời điểm nào đó
được đònh nghóa bằng giá trò tổng các đầu tư qua các năm, tính đến thời điểm đó.
Trong thực tế, để tính toán giá trò vốn tại một thời điểm nào đó người ta cộng tất
cả các đầu tư trước đó, rồi trừ đi khấu hao hàng năm.
Căn cứ vào quan hệ sở hữu, có thể chia nguồn vốn đầu tư làm 2 loại là
đầu tư của khu vực nhà nước (các dự án công) và đầu tư của khu vực tư nhân
(các dự án sinh lời).
1.1.1.2. Đầu tư của khu vực nhà nước
Nguồn đầu tư thuộc khu vực nhà nước được xác đònh theo đẳng thức sau:
I
g
= PSBR + (T – C
g
) + F
g
(1.1)
Trong đó:
PSBR là khả năng đi vay của Chính phủ (public sector borrowing
requirement).
T là các khoản thu của khu vực nhà nước.

5

p
= S
p
+ F
p
(1.2)
S
p
= Y
p
d
- C
p
(1.3)
Trong đó: Y
p
d
là thu nhập khả dụng.
C
p
là tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình.
Luồng vốn của nước ngoài đổ vào khu vực này ở các dạng như đầu tư
trực tiếp (FDI) và các khoản nợ. Nguồn tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp
(gồm cả cá nhân) thường là nguồn chủ yếu trong nền kinh tế. Tuy nhiên, theo
thực tế của Việt Nam thì lượng tiết kiệm của nước ta là tiết kiệm phi sản xuất
được cất giấu dưới dạng q kim (vàng, bạc) hoặc ngoại tệ (USD) khá nhiều.

6
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác đònh là thành
phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một

7

khối lượng vốn nhà nước khá lớn và nắm giữ một số ngành quan trọng của nhà
nước. Mặc dù trong thời gian qua vẫn còn tình trạng quản lý sử dụng vốn kém
hiệu quả tại một số doanh nghiệp, nhưng với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này đã được khẳng
đònh, tích lũy của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng và đóng góp đáng
kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.
1.1.2.1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ,
khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà
chưa được huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ
trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích
lũy truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải
là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … Nguồn vốn này xấp xỉ bằng
80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát
hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc
doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và
hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.
Với 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn
1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia
đình thực sự đã trở thành các đơn vò kinh tế năng động trong nhiều lónh vực. Ở

Thông qua thò trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền đòa phương cũng
có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình
bằng việc phát hành các loại chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái … Xét về
mặt kinh tế, hình thức huy động vốn này của nhà nước là rất tích cực. Nó góp
phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phải phát hành thêm tiền
giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu quả, thò trường vốn thực sự trở thành
một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang
nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thò trường vốn không chỉ được coi là một kênh huy
động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phụctình
trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội.
1.1.2.2. Nguồn vốn ngoài nước
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các
dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thò quá trình chuyển giao nguồn lực tài
chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế,

9

dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các
nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều
hình thức, mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng,
không hoàn toàn giống nhau.
Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể bao gồm các nguồn vốn nước
ngoài chính như sau:
1.1.2.2.1. Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance – Viện trợ
phát triển chính thức)

thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc
đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,
công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn
đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dòch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng
đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của
các quốc gia này. Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở
cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần bổ sung vốn quan
trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện … Tính đến năm 2000,
Việt Nam đã thu hút được trên 65 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư,
trên 3200 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký khoảng 45 tỷ USD. Các
năm 2003 – 2004 – 2005 thu hút được lần lượt là 3,2 – 4,2 – 5,8 tỷ USD.
Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng
rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào
việc hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông… Bước đầu hình thành và đẩy nhanh tốc độ phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao góp phần thực hiện công nghiệp hóa
hiện đại hóa và đô thò hóa các khu vực phát triển, tạo việc làm cho hàng vạn lao
động tại các đòa phương.
1.1.2.2.3. Các nguồn vốn khác từ bên ngoài
- Thò trường vốn quốc tế: Với xu thế toàn cầu hóa, mối liên kết ngày
càng tăng của các thò trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo
nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn
lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm
qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu
tư qua thò trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác.
Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững,

Hệ số ICOR là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một quốc gia hay
một ngành, cho thấy cần thêm bao nhiêu đồng cho đầu tư để tăng thêm một đơn
vò sản lượng. Ta có:
Tốc độ tăng trưởng = Lượng đầu tư x Hiệu quả đầu tư
Lượng đầu tư ở đây được tính bằng tỉ lệ đầu tư trên GDP và hiệu quả của
đầu tư là hệ số ICOR. Hệ số ICOR bằng:

12
Vốn đầu tư Vốn đầu tư
ICOR = =
GDP do vốn tạo ra GDP Vốn đầu tư
Từ đó suy ra: Mức tăng GDP =
ICOR
Trong đó: I là đầu tư.
GDP là tổng sản phẩm quốc nội.
Các công thức trên cho thấy mối tương quan tỉ lệ nghòch giữa hệ số
ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với tỉ lệ đầu tư /GDP giống nhau, nước nào
có hệ số ICOR thấp hơn thì sẽ tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Số
liệu thực tế từ các nước cho thấy sự khác biệt trong hệ số ICOR giữa các nước
đóng vai trò lớn trong việc giải thích sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa các
nước.
Như vậy hệ số ICOR càng thấp thì chứng tỏ là đầu tư càng hiệu quả. Hệ
số ICOR thấp hơn có nghóa là cần một tỉ lệ đầu tư GDP thấp hơn để duy trì cùng
một tốc độ tăng trưởng. Tuy nhiên, theo quy luật về lợi tức biên giảm dần

K và L là các tổng nhập lượng vốn và lao động; t là thời gian.
Một giả đònh đơn giản nhất về tác động của thời gian là sự tiến bộ về
hiệu quả kinh tế như công nghệ và phương pháp quản lý, trong đó cho rằng tác
động này làm tăng khối lượng sản phẩm, sản xuất ra từ một sự kết hợp nhất đònh
của hai nhân tố sản xuất là vốn và lao động. Với giả đònh này, hàm sản xuất có
thể được viết như sau:
GDP
t
= A
t
f (K
t
, L
t
) (1.5)
Với A là tiến bộ về hiệu quả kinh tế như công nghệ, phương pháp quản
lý, điều hành . . . (được gọi chung là tổng các yếu tố năng suất).
Vậy ba nguồn gốc tăng trưởng tổng sản phẩm là sự gia tăng tổng các
yếu tố năng suất (A), vốn (K), và lao động (L) theo thời gian t.
1.2.3. Các chỉ tiêu về hiệu quả tài chính
- Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án: Đây là chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần phản ánh
hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư (quy mô lãi của cả đời dự án).
Chỉ tiêu này có thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai.
- Chỉ tiêu suất sinh lời vốn tự có: Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận
thuần từng năm tính trên một đơn vò vốn tự có bình quân của năm đó. Nếu tính

14
khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã
hội. Do đó trên góc độ quản lý vó mô phải xem xét mặt kinh tế - xã hội của đầu
tư, xem xét những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều

15

này giữ vai trò quyết đònh để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép
đầu tư, các đònh chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa
phương tài trợ cho hoạt động đầu tư.. Những lợi ích kinh tế - xã hội có thể được
xem xét mang tính chất đònh tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế,
phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần chống
ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh… , hoặc đo lường bằng cách tính toán đònh
lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức
tăng thu ngoại tệ. Một số tiêu chuẩn phổ biến để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã
hội của của hoạt động đầu tư ở một số nước hiện nay là:
- Nâng cao mức sống của dân cư: Được thể hiện gián tiếp thông qua các
số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng góp
của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy
mạnh công bằng xã hội.
- Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu
chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước thừa lao động,
thiếu việc làm.
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ
nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu là những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tại các

Vì b là hệ số thiên hướng tiêu dùng biên (marginal presensity to
consume), bao gồm tiêu dùng trong nước và tiêu dùng nhập khẩu; v là hệ số
thiên hướng tiêu dùng nhập khẩu (marginal presensity to import). Do đó, (b – v)
sẽ lớn hơn 0 và (1 – b + v) sẽ nhỏ hơn 1, tức là 1/(1 –b +v) sẽ lớn hơn 1. Và từ
đẳng thức (1.7) cho thấy: với các điều kiện khác không đổi thì khi đầu tư I gia
tăng 1 đơn vò thì thu nhập Y sẽ gia tăng hơn 1 đơn vò. Ảnh hưởng trên gọi là ảnh
hưởng hệ số nhân (Multiplier effect).
Ảnh hưởng khác của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế thông qua tổng cung
thể hiện ở chỗ là: vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn
được kết hợp với lao động và tài nguyên, thông qua quá trình sản xuất, sẽ tạo ra
của cải vật chất trong xã hội. Nhiều nghiên cứu đi đến kết luận vốn là nhân tố
quan trọng nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế. Vốn không chỉ đóng góp trực tiếp
vào tăng trưởng kinh tế với tư cách là đầu vào của sản xuất (đóng góp về mặt
lượng) mà còn đóng góp một cách gián tiếp thông qua việc thúc đẩy tiến bộ kỹ

17

thuật do các đầu tư mới mang lại, do lợi thế kinh tế nhờ quy mô lớn (tức là với
một ngành, việc đầu tư mở rộng quy mô sẽ làm giảm chi phí sản xuất – do
chuyên môn hóa…). Đây là những đóng góp về “chất” của đầu tư, tức là hiệu
quả của nền kinh tế đã được nâng cao.
1.3.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Trong khi các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân
tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế: Muốn có tăng trưởng kinh tế thì
phải có đầu tư, tuy nhiên vấn đề hình thành cơ cấu đầu tư là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi.
Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng nền kinh tế cần có một cơ cấu

P là giá bán mỗi đơn vò sản phẩm
Y là sản lượng tăng thêm khi doanh nghiệp đầu tư thêm một lượng tư
bản
K là khối lượng tư bản tích lũy tăng thêm
Công thức trên chính là diều kiện đầu tư tối ưu theo lý thuyết tân cổ điển
và thường được phát biểu: Tích lũy tư bản đạt mức tối ưu khi doanh thu biên tế
của tư bản bằng chi phí của đơn vò tư bản.
Một khi tích lũy tư bản đã được điều chỉnh để đạt tới mức tối ưu, quá
trình đầu tư nói chung sẽ chậm lại và chủ yếu chỉ còn việc duy trì mức tư bản đã
tích lũy. Tuy nhiên, nếu có sự thay đổi công nghệ, việc thay thế máy móc thiết
bò mới sẽ làm tăng khả năng sản xuất, tức Y/ K. Việc tăng khả năng sản
xuất này xảy ra ngay cho dù việc thay thế hoàn toàn không làm tăng tích lũy tư
bản. Điều này có nghóa là mức tích tối ưu trong điều kiện công nghệ mới có xu
hướng cao hơn. Do đó, cải tiến công nghệ làm phát sinh nhu cầu đầu tư.
Tiến bộ công nghệ cũng có thể tạo ra cơ hội cho đầu tư mới. Ví dụ
những công nghệ mới có thể làm giảm chi phí sản xuất, nhờ vậy nhiều dự án trở
nên khả thi. Công nghệ mới cũng có thể tạo ra những nhu cầu mới, do đó thu hút
đầu tư vào lónh vực sản xuất các hàng hóa đó. Nhưng cũng cần lưu ý là tiến bộ
công nghệ cũng có thể làm thay đổi nhu cầu. Các loại sản phẩm mới có thể thay
thế các sản phẩm cũ. Do đó nhu cầu đầu tư ở một số ngành có thể giảm đi.
19

nghiệp có thể vẫn không đầu tư. Trong bối cảnh của cách tiếp cận này, thông tin
cũng là một yếu tố quan trọng. Việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính sách về

20

các thủ tục cũng là một cách để góp phần làm giảm chi phí giao dòch.
1.5. KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ Ở CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN TRÊN THẾ GIỚI
Ở các tỉnh, thành phố trong nước cũng như ở các quốc gia trên thế giới
đều rất quan tâm đến vấn đề thu hút và tạo vốn cho đầu tư phát triển.
Ngoài việc huy động tối đa nguồn nội lực, việc thu hút, lôi kéo các nhà
đầu tư từ bên ngoài đến đầu tư tại quốc gia, đòa phương mình bằng một hệ thống
các giải pháp đồng bộ, bằng sự nỗ lực của các ngành, các cấp, từ nhà lãnh đạo
cao cấp cho đến cả người dân bản đòa.
Thành công thu hút đầu tư và phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình
Dương bắt nguồn từ suy nghó và quyết tâm tạo môi trường kinh doanh minh bạch
và thuận lợi cho nhà đầu tư, thực hiện chính sách “một cửa” (thay vì nhà đầu tư
phải liên hệ giao dòch với nhiều sở, ban, ngành để hoàn tất thủ tục đầu tư), tinh
giản và rút ngắn thủ tục, chủ động làm những công việc như khảo sát đòa điểm,
quy hoạch, đền bù và giải phóng mặt bằng cho các nhà đầu tư. Nhằm tháo gỡ
những vướng mắc khó khăn cũng như giải quyết những vấn đề chưa rõ ràng
trong các quy đònh, tỉnh Bình Dương đã chủ động báo cáo đề xuất, đồng thời có
biện pháp thực thi linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật. Nhờ vậy một số dự án,
ngành nghề thay vì ngừng trệ như các nơi khác thì ở Bình Dương vẫn được triển
khai (Ô. Lê Việt Dũng – Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Bình Dương –
bản tin Môi trường kinh doanh, tháng 8/2004).
Để xúc tiến và kêu gọi đầu tư, tỉnh Đồng Nai đã cử một đoàn quan chức

Trong thời gian qua, Việt Nam có nhiều nổ lực trong việc cải cách hệ
thống pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư, đạt được những tiến bộ đáng kể,
được các tổ chức quốc tế công nhận. Song so với các nước trong khu vực thì vẫn
còn kém xa. Bảng so sánh sau đây cho ta hình dung:

Thời gian hoàn
tất thủ tục đăng
ký tài sản (ngày)
Số lượng thủ
tục đăng ký
thành lập
Doanh nghiệp
Thời gian hoàn tất
các thủ tục thành
lập Doanh nghiệp
(ngày)
Việt Nam
Singapore
Thái Lan
Malaysia
67
9
2
143
11
6
8
9
50
6

Ngược lại, hành vi đầu tư cũng bò tác động bởi nhiều yếu tố về kinh tế,
kỹ thuật và môi trường xã hội.
Song song với lý luận, kinh nghiệm thực tiễn là vấn về không thể thiếu
trong quá trình nghiên cứu. Do đó, trong chương 1 chúng tôi đã tổng hợp một số
kinh nghiệm trong việc khơi thông, tạo lập và thu hút các dòng vốn đầu tư được
đúc kết từ các tỉnh, thành phố và một số quốc gia có nền kinh tế năng động như
TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Ròa-Vũng Tàu, Vónh Phúc và các
nước lân cận như Trung quốc, Thái Lan.
Trên cơ sở lý luận và một số kinh nghiệm thu thập được, nội dung
chương 1 là nền tảng xuyên suốt của đề tài trong quá trình nghiên cứu, phân
tích, đánh giá thực trạng về đầu tư và tăng trưởng kinh tế trên đòa bàn Bình
Thuận trong thời gian qua. 23

Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH THUẬN

2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN
2.1.1. Lợi thế và tiềm năng
- Về vò trí đòa lý: Với vò trí đòa lý thuận lợi, nằm trên tuyến Quốc lộ IA,
liền kề với vùng Đông Nam Bộ (là vùng có tiềm lực kinh tế lớn và tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất nước), gần đường hàng hải quốc tế, có hệ thống giao
thông quan trọng cả về đường sắt lẫn đường bộ… tạo cho Bình Thuận khả năng
thuận lợi để phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng giao lưu kinh tế với cả nước

Trắng, Sư Tử Vàng và Sư Tử Nâu), trong đó có 3 mỏ đã đưa vào khai thác
(Rạng Đông, Hồng Ngọc, Sư Tử Đen) với sản lượng hàng năm khoảng 8 triệu
tấn. Đây là điều kiện và là cơ hội tốt cho Bình Thuận phát triển hạ tầng và dòch
vụ để khai thác, sử dụng sản phẩm từ dầu khí, phục vụ cho các hoạt động từ
công nghiệp và dòch vụ dầu khí.
Với diện tích đất liền gần 8 ngàn km
2
, Bình Thuận cũng có nhiều loại
khoáng sản có giá trò thương mại và công nghiệp cao có khả năng khai thác hiệu
quả như: Sa khoáng Ilmenit, cát thủy tinh, nước khoáng, đá ốp lát và đá xây
dựng, sét,…
Trong điều kiện đô thò hóa diễn ra nhanh chóng như hiện nay, đất đai
được quy hoạch phát triển đô thò được xem là tài sản rất lớn mà ở Bình Thuận
cũng là một lợi thế không nhỏ.
- Về con người: Với dân số hơn một triệu người, gần 60% trong độ tuổi
lao động, người dân chòu khó và năng động. Do nằm cạnh thành phố Hồ Chí
Minh nên mặt bằng dân trí tương đối cao so bình quân chung cả nước và có đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý đã tiếp cận với công nghệ hiện
đại, công nghệ thông tin và những quy luật của nền kinh tế thò trường. Ngoài ra,
còn có một lực lượng lao động có tay nghề khéo léo trong một số ngành nghề
truyền thống, khai thác các sản phẩm lợi thế, giải quyết nhiều lao động. Con
người là yếu tố quan trọng để thúc đẩy và điều hành sự phát triển kinh tế của
tỉnh nhà, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, tiếp cận nền kinh
tế thò trường, học tập và nâng cao các kỹ năng, … đủ sức đáp ứng một lực lượng
lao động phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế trong những năm tới.
Cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của các nhà lãnh đạo tỉnh, biến những
tiềm năng và cơ hội thành hiện thực, đẩy nền kinh tế của tỉnh nhà phát triển
nhanh, mạnh, cân đối, vững chắc và ổn đònh để bám kòp kinh tế của các tỉnh

25

còn cho từng đòa phương. Song việc cạnh tranh lại diễn ra khá gay gắt, với quy
mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển thấp, khả năng cạnh tranh yếu cùng với
chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, hệ thống chính sách chưa đồng bộ, chưa
linh hoạt là những khó khăn trong quá trình hội nhập.

Trích đoạn Những thuận lợi của mơi trường đầu tư tại Bình Thuận Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status