TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG HÁT DÔ Ở QUỐC OAI – HÀ TÂY - Pdf 27

Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
139
TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT DIỄN XƯỚNG HÁT DÔ Ở
QUỐC OAI – HÀ TÂY
A RESERCH ON THE HAT DO PERFORMING STYLE IN QUOC OAI
DISTRICT – HA TAY PROVINCE

SVTH: ĐỖ PHÚ HUỲNH
Lớp 05CVH2, Khoa Ngữ Văn, Trường ĐHSP Đà Nẵng
GVHD: TS. LÊ ĐỨC LUẬN
Khoa Ngữ Văn, Trường ĐHSP Đà Nẵng

TÓM TẮT
Nghệ thuật diễn xướng hát Dô là loại hình tín ngưỡng dân gian ở Quốc Oai – Hà Tây, thờ đức
thánh Tản Viên, 36 năm mới tổ chức một lần. Với đề tài "Tìm hiểu nghệ thuật diễn xướng
hát Dô ở Quốc Oai – Hà Tây", chúng tôi tập trung làm rõ 4 phương diện: nguồn gốc, không
gian diễn xướng, hình thức biểu diễn, nội dung diễn xướng. Qua đề tài này có thể thấy được
những nét đặc sắc trong loại hình nghệ thuật độc đáo ở địa phương có truyền thống văn hoá
lâu đời.
ABSTRACT
Hat Do performance is a kind of religious belief in Quoc Oai district – Ha Tay province,
performed every 36 years in memory of the Saint of Tan Vien Mountain. The research on the
hat Do performing style in Quoc Oai district – Ha Tay province, aims at providing the
readers with the origin of hat Do, the performing space, the performing methods and the lyrics.
In that way, the outstanding features of this exceptional art of the region that has a long time
cultural tradition are shown.

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Diễn xướng dân gian gắn liền với lễ hội là một loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc
trong kho tàng văn hoá phi vật thể của người Việt. Các loại hình nghệ thuật trong diễn xướng

- Là công trình nghiên cứu có hệ thống, căn cứ trên những tài liệu đã được xuất bản. Đề
tài “Tìm hiểu nghệ thuật diễn xướng hát Dô ở Quốc Oai – Hà Tây” đi tìm về nguồn cội của
địa phương có nền văn hoá cổ đặc sắc, nhằm giữ gìn và phát huy di sản văn hoá phi vật thể của
dân tộc.
- Nghiên cứu đề tài này giúp cơ quan văn hoá của địa phương nắm vững và có chính
sách phù hợp đối với diễn xướng hát Dô nói riêng, lễ hội đền Khánh Xuân nói chung.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về nơi diễn ra diễn xướng hát Dô để khảo sát văn bản lời ca, phỏng vấn các nhân vật có
liên quan. Bên cạnh đó, các phương pháp khảo tả, so sánh, xử lí tài liệu, phân tích, đánh giá,
thống kê, tổng hợp cũng được sử dụng để làm rõ vấn đề.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT MÔI TRƢỜNG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ CON NGƢỜI
XÃ LIỆP TUYẾT
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cƣ
1.1.1. Vị trí địa lí
Xã Liệp Tuyết liền kề với vùng bán sơn địa, nằm ở phía Tây Nam huyện Quốc Oai, với
diện tích khoảng 2,5 km
2
, bao gồm 5 thôn: Đại Phu, Vĩnh Phúc, Bái Nội, Bái Ngoại và Thông
Đạt. Là nhịp cầu nối giữa vùng bán sơn địa, vùng rừng núi Hoà Bình và vùng đồng bằng phía
Đông Nam huyện Quốc Oai và cả tỉnh Hà Tây, nơi đây có thế mạnh phát triển kinh tế đồi gò,
đặc biệt là phòng thủ quân sự.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bị chi phối bởi dòng sông Tích chảy từ Ba Vì xuống. Đến địa phận xã
Liệp Tuyết sông Tích chảy uốn khúc quanh co. Khi chưa có hệ thống đê trị thuỷ, nơi đây là
rốn nước của cả vùng. Nhưng chính điều kiện tự nhiên đã nảy sinh các hình thức sinh hoạt dân
ca vô cùng độc đáo.
1.1.3. Dân cƣ
Là vùng ven sông, cư dân chủ yếu sinh sống bằng nghề nông từ rất sớm. Vì vậy, tính
cộng đồng làng xã rất mạnh mẽ. Đến năm 2005, theo nguồn niên giám, xã Liệp Tuyết có tổng

bản địa và thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người có công. Mỗi thôn đều có đình, chùa. Riêng
thôn Đại Phu có quần thể kiến trúc đình, chùa, đền, quán tạo thành quần thể di tích văn hoá.
Nhìn chung đời sống tâm linh tín ngưỡng cư dân xã Liệp Tuyết là những nét chung của
tín ngưỡng người Việt. Sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và tôn giáo bên ngoài không có sự
mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, tạo nên đời sống tâm linh, tín ngưỡng vô cùng phong phú.
Tiểu kết
Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến cư dân, đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng
của con người. Liệp Tuyết là vùng đất có truyền thống văn hoá lâu đời. Đặt lễ hội đền Khánh
Xuân và diễn xướng hát Dô trong không gian tự nhiên và xã hội, với những tác động qua lại sẽ
có thể nhìn nhận lễ hội đền Khánh Xuân và diễn xướng hát Dô một cách thấu đáo và sâu sắc
hơn.
CHƢƠNG 2. ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT DIỄN XƢỚNG HÁT DÔ
2.1. Giới thiệu về diễn xƣớng hát Dô
2.1.1. Nguồn gốc
Hát Dô là thể loại dân ca nghi lễ, hình thành và phát triển trên mảnh đất Lạp Hạ, nay là
xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, thờ đức thảnh Tản Viên, là vị thần đứng đầu
trong từ bất tử linh thiêng của dân tộc ta. Có nhiều truyền thuyết giải thích nguồn gốc của diễn
xướng hát Dô, nhưng đều khẳng định 36 năm lễ hội đền Khánh Xuân và diễn xướng hát Dô
mới được tổ chức một lần. Như vậy có thể nêu giả thiết: những bài ca khẩn nguyện kết hợp với
truyền thuyết Tản Viên cùng với sự múa hay hát giỏi của cư dân Liệp Tuyết hình thành nên
thể loại văn hoá dân gian đặc sắc.
2.1.2. Lịch sử diễn xƣớng hát Dô
Trong quá trình phát triển, diễn xướng hát Dô dung nạp thêm và hoàn thiện như ngày
hôm nay. Mục đích ban đầu của nó là phục vụ cho việc thờ cúng, ca ngợi các vị thần trong đền
Khánh Xuân. Quá trình phát triển, diễn xướng hát Dô dung nạp thêm những ý nghĩa mới mẻ
như cầu mong sự thịnh vượng cho làng chạ, cho ngành nghề. Quá trình này chịu sự ảnh hưởng
của các nhà Nho, đặc biệt ở thời Lê sơ. Cao hơn nữa là những bài hát trữ tình về tình yêu thiên
nhiên, tình yêu nam nữ.
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
142

Hát Chúc: là nội dung hát thuộc phần nghi lễ của diễn xướng hát Dô. Phần nội dung bắt
buộc nghi lễ chỉ chiếm phần nhỏ mà nội dung cơ bản của diễn xướng là ước muốn của mọi
tầng lớp người trong xã hội, là thăng quan tiến chức, làm nông thuận lợi, buôn bán thuận hoà,
là mừng xuân, là vui chơi, hội hè.
Hát Bỏ bộ: là phần lời ca mang đậm chất trữ tình hơn cả. Tình yêu nam nữ được thể
hiện tinh tế và rõ nét. Lời ca điêu luyện, thấm đượm chất trữ tình. Sức sống lâu bền của diễn
xướng hát Dô chính là giá trị hiện thực mang lại cho con người.
2.3.2. Thể thơ
Nhiều thể thơ được sử dụng. Từ câu thơ ba chữ, bốn chữ, bảy chữ đến những câu thơ lục
bát có sự cân bằng về trung tâm đều được sử dụng nhuần nhuyễn. Quá trình phát triển của thể
thơ trong diễn xướng hát Dô cũng là sự phát triển của thể thơ dân tộc
2.3.3. Mối quan hệ giữa lời ca và làn điệu trong diễn xƣớng hát Dô
Lời thơ quy định các tên gọi của làn điệu trong diễn xướng hát Dô. Khi phân định ranh
giới các bài có những làn điệu khác nhau, người hát thường dựa vào lời thơ của đoạn hát ấy để
đặt tên cho nội dung từng đoạn. Nội dung hát Bỏ bộ thì khác, bởi mỗi bài có một ý nghĩa riêng
cho nên việc đặt tên cũng dễ dàng hơn.
Tuyển tập Báo cáo “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học” lần thứ 6 Đại học Đà Nẵng - 2008
143
Làn điệu chi phối lời thơ trong diễn xướng hát Dô bằng cách gia nhập những tiếng phụ
vào bài thơ nguyên thể. Đó là những tiếng đệm, tiếng lót, tiếng láy cài vào đầu, giữa hay cuối
những dòng thơ của các thể thơ khác nhau. Việc gia nhập tiếng phụ ở mỗi loại hình dân ca là
khác nhau. Đó cũng là những nét khu biệt của diễn xướng hát Dô.
2.4. Trang phục và đạo cụ
Trang phục: được quy định sẵn dàng cho Cái hát và các bạn nàng.
Đạo cụ: quạt giấy là đạo cụ của các bạn nàng, đôi sênh là đạo cụ của Cái hát.
Tiểu kết
Ở chương này cho ta thấy nhiều nét đặc sắc trong diễn xướng hát Dô. Từ nguồn gốc,
hình thức đến nội dung. Nội dung diễn xướng khá phong phú. Khát vọng về việc nhìn nhận tự
nhiên và xã hội thể hiện tinh tế. Giá trị của diễn xướng hát Dô đã ăn sâu vào tâm hồn con
người xã Liệp Tuyết.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status