CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992 - Pdf 27

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Đức Bảo, giảng
viên Luật Hiến pháp, trường Đại học Luật Hà Nội, người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong việc nghiên cứu đề tài
này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo
Trường Đại học Luật Hà Nội, gia đình và bạn bè đã dìu dắt,
động viên em trong suốt những năm học qua cũng như
trong quá trình em hoàn thành bài khóa luận.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
MỤC LỤC
Chương I
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.
1.2
1.3.
Chương II
2.1
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.

03
04
05
05
06
08
08
08
10
12
13
15
19
20
20
21
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
Chương III
3.1.
3.2.
Chính sách đối với từng thành phần kinh tế.
Đối với kinh tế nhà nước

MỞ ĐẦU
Việt Nam - một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên
và khâm phục của bạn bè thế giới. Song, công cuộc xây dựng đất nước, phát triển
kinh tế - xã hội, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm
cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội… so với
các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền
kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng,
suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực khác.
Từ những thực trạng nói trên việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện
và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó so với
các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì vậy, Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc
hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam năm 1992 (Nghị quyết số 51/2001/QH10) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ
bản về chính sách kinh tế. Nền kinh tế nước ta được hoạch định theo hướng xóa
bỏ cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN. Theo đó, một loạt văn bản luật ra đời dựa trên tinh thần
Hiến pháp 1992 như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… đã góp phần quan trọng,
tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối được đưa ra tại các kỳ Đại hội Đảng,
qua đó xây dựng một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước, phù hợp
với xu thế hội nhập trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài: “Chính sách
kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp
1992” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và
thực tiễn hiện nay đối với chính sách kinh tế của nhà nước ta.
Đề tài nhằm mục đích hướng tới tìm hiểu những nội dung cơ bản trong
chính sách kinh tế của nhà nước được quy định trong Hiến pháp 1992 nói chung
và các văn bản pháp luật ban hành theo tinh thần Hiến pháp 1992 nói riêng, bao
gồm chính sách chung và các chính sách đối với từng thành phần kinh tế cụ thể.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992

Theo Từ điển tiếng Việt, ngôn ngữ học Việt Nam, kinh tế là “Tổng thể nói
chung những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất, phát
triển kinh tế”. Ví dụ: sự phát triển kinh tế; nền kinh tế quốc dân. Kinh tế được
hiểu là cách thức sản xuất để tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của con
người. Nếu hiểu kinh tế là cách thức tổ chức sản xuất đặc trưng cho một giai
đoạn nhất định trong lịch sử hay một quan hệ sản xuất xã hội thì “Kinh tế là tổng
thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định”. Ví dụ: kinh tế phong kiến; kinh tế tư bản chủ nghĩa. Hiểu kinh tế dưới góc
độ động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội: “Kinh tế có liên quan đến lợi ích vật
chất của con người. Sử dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển sản xuất”. Kinh tế tiếp
cận dưới góc độ là hiệu quả sản xuất kinh tế “Có tác dụng mang lại hiệu quả
tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối ít bỏ ra”.
Từ điển “Từ và Ngữ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Lân lại tiếp cận kinh
tế dưới góc độ từ loại (danh từ, từ Hán Việt). Kinh: sửa trị, tế: cứu giúp. Kinh tế
là “Toàn bộ hoạt động nhằm sản xuất ra của cải vật chất và trao đổi, phân phối sử
dụng những của cải đó trong xã hội loài người”. Nói đến kinh tế (tính từ) là nói
đến hiệu quả (Tốn ít mà có hiệu quả). Còn câu ngạn ngữ “kinh bang tế thế” (Hán
Việt: kinh: sửa trị; bang: nước; tế: cứu; thế: đời) có nghĩa là dựng nước giúp đời.
Từ các cách tiếp cận trên đây, dưới góc độ sản xuất chúng ta có thể hiểu kinh tế
là cách thức, tài nghệ của con người nhằm cải biến, chiếm lĩnh của cải tự nhiên
để thoả mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn. Phạm trù kinh tế có nguồn gốc xuất hiện
từ khi con người ra đời và biết sản xuất, kinh tế đã từng tồn tại qua các giai đoạn
phát triển khác nhau với các hình thức tên gọi khác nhau: kinh tế tự cấp tự túc,
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Còn xem xét dưới góc độ tính chất sản xuất
gắn với quy mô sản xuất có kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế công xã
nguyên thủy, kinh tế chiếm hữu nô lệ, kinh tế phong kiến, kinh tế tư bản chủ
nghĩa và kinh tế xã hội chủ nghĩa… Còn nếu gắn với sở hữu tư liệu sản xuất tổ

các lĩnh vực kinh tế - xã hội (theo Đại từ điển tiếng Việt).
• Khái niệm chính sách kinh tế:
Là chính sách và biện pháp kinh tế mà Nhà nước áp dụng trong một giai
đoạn hay thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những mục đích, yêu cầu kinh tế - chính
trị nhất định. Chính sách có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có
thể có tính chất sách lược ngắn hạn.[5].
Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối xây dựng kinh tế của Đảng, quy
định một loạt nội dung chính sách kinh tế mới của Nhà nước.
1.2. Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế
Chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của ngành luật Hiến pháp Việt
Nam, bao gồm:
- Mục đích, phương hướng phát triển kinh tế.
- Các chính sách kinh tế của Nhà nước.
- Các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
- Các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, chính sách kinh tế là một bộ phận của chế độ kinh tế, có vai trò
định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với khả năng và điều kiện của đất
nước. Mặt khác, xét về yếu tố thời gian, chính sách kinh tế thường chỉ được tính
toán trong một giai đoạn nhất định, và giai đoạn đó thông thường không kéo dài.
Trong khi đó, chế độ kinh tế được hoạch định trong một thời gian dài, mang tính
chất ổn định. Có thể nói, chế độ kinh tế bao trùm lên chính sách kinh tế và gồm
nhiều chính sách kinh tế khác nhau. Các chính sách kinh tế được xây dựng nối
tiếp tạo nên chế độ kinh tế của một nhà nước, một chính quyền.
1.3. Vai trò của chính sách kinh tế
• Thể hiện quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế của Nhà nước.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Nhà nước thực hiện vai trò lãnh đạo toàn xã hội thông qua các chức năng:

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
và đời sống xã hội bền vững. Để được như vậy, các nhà lãnh đạo nhà nước phải
là những người có tầm nhìn xa trông rộng, hoạch định được những chính sách
kinh tế vừa cụ thể, vừa khái quát, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính sách kinh tế
cụ thể giúp giải quyết từng vấn đề, từng lĩnh vực, định hướng từng ngành nghề,
từng khu vực sản xuất hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách kinh tế
khái quát có tác dụng giữ ổn định nền kinh tế, nền kinh tế không bị xáo trộn liên
tục, gây nên những bất ổn, thậm chí có thể tác động cả đến nền chính trị và sự
lãnh đạo của đảng cầm quyền, sự tin tưởng của nhân dân vào nhà nước. Đây là
một nhiệm vụ khó khăn, một thách thức đối với đội ngũ các nhà lập pháp, nhưng
khi thực hiện được thì sẽ góp phần to lớn vào tiến trình xây dựng đất nước, làm
cho dân giàu, nước mạnh, xã hội ổn định, phồn vinh.
Chương II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
THEO HIẾN PHÁP 1992
2.1. Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn của chính sách kinh tế
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
2.1.1. Cơ sở lý luận: văn kiện Đại hội Đảng.
Đại hội Đảng VI (12/1986) đã thổi luồng gió mới vào đời sống kinh tế ở
nước ta. Đại hội đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của thực trạng yếu kém của
nền kinh tế nước ta, chỉ ra: “Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ
hơn về con đường tiến lên CNXH ở nước ta” [1] và chỉ rõ trong nhận thức và
trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất. Đồng thời, Đại hội xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước
ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”. [1].

Đại hội Đảng VIII (6/1996): tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng
XHCN đó là “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. [3]. Đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù
hợp. Có thể khẳng định, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng XHCN chính là nguồn gốc của mọi sự thay đổi theo xu hướng tiến bộ của
pháp luật nước ta.
Đại hội Đảng IX (2001) là đại hội của “ý Đảng lòng dân” về sở hữu và các
thành phần kinh tế. Đại hội đã có những bổ sung và phát triển trong chính sách
kinh tế, đặc biệt là quy định thêm chính sách đối với thành phần kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được đưa ra
tại Đại hội IX là sự diễn đạt ngắn gọn nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần cơ bản
của những khái quát do Đại hội Đảng đã nêu ra và đặc biệt nói rõ được mô hình
kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội chỉ rõ: Kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Sự khẳng định mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là, khẳng
định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định

Có thể khẳng định rằng, với những sửa đổi, bổ sung quan trọng, cơ bản,
thích ứng và kịp thời, Hiến pháp 1992 đã phát huy được hiệu quả, tạo cơ sở pháp
lý quan trọng để nước ta từng bước chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy
nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội nước ta đã có những thay đổi lớn lao và mục tiêu đặt ra của cách
mạng nước ta cần đi tới đòi hỏi Hiến pháp 1992 phải được bổ sung, sửa đổi một
số điều cho thích ứng. Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa X ngày 29/6/2001 đã
thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến pháp 1992. Ngày
25/12/2001, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã nhất trí thông qua việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
Trên cơ sở những vấn đề được nêu ra trong các văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ IX của Đảng, Chương II – Chế độ kinh tế được sửa đổi, bổ sung ở 5 điều: 15,
16, 19, 21, 25. Trong đó, xác định rõ hơn các vấn đề về định hướng, nguyên tắc,
mục tiêu của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế; mở rộng hơn các thành phần kinh tế và vị trí của chúng trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Không chỉ dừng lại ở sự ghi nhận, Hiến pháp sửa
đổi còn tạo cơ sở pháp lý để công dân được phát huy quyền tự do kinh doanh làm
lợi cho quốc kế dân sinh và kinh tế gia đình.
Như vậy, trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất, chính sách kinh tế
của Nhà nước ta được xác định là chính sách “phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng XHCN”. Đây là cơ sở quan trọng để ban hành
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
nhiều văn bản luật cụ thể hóa, chi tiết hóa như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp,
Luật Hợp tác xã…
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
+ Tình hình thế giới:
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô

chiếm 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Tương
ứng, thời kỳ 1981 – 1985 là 22,4% và 28,9%. Đến năm 1985, nợ nước ngoài lên
tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ đô la. Trong khi đó ngân sách vẫn thâm hụt và phải bù đắp
bằng phát hành.
- Nhiều loại sản phẩm bình quân đầu người năm 1985 còn thấp hơn năm
1976: than, gỗ tròn, cá biển, giấy bìa… Do sản xuất không đủ tiêu dùng nên hầu
hết các loại hàng hóa đều phải nhập khẩu, kể cả một số mặt hàng trong nước có
thể sản xuất được như gạo, vải…
- Chỉ số lạm phát lớn, tăng nhanh, lên đến đỉnh cao vào năm 1986
(776,9%).
- Đời sống nhân dân khó khăn nghiêm trọng.
2.2. Chính sách phát triển kinh tế
Chính sách kinh tế theo Hiến pháp 1980 đã xây dựng nên một mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Nhà nước trở thành người trực tiếp
quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, phân phối, cả đất nước trở thành một
doanh nghiệp do Nhà nước chỉ huy điều hành trực tiếp. Đối với sở hữu tập thể,
mọi tư liệu sản xuất của người lao động từ cái cày, cái cuốc, con trâu đến ruộng
đất đều bị tập thể hóa. Từ đó quá trình sản xuất và phân phối đều do ban quản trị
điều hành. Thế nhưng toàn bộ tài sản được tập thể hóa cũng không phải là của xã
viên mà cũng không phải của ban quản trị, cũng không phải của nhà nước. Nó
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
chẳng của ai cả, vô hình trung đã trở thành không có chủ đích thực. Quy mô của
hợp tác xã càng lớn thì tính vô chủ đối với tư liệu sản xuất càng cao. Do đó phát
sinh tình trạng lãng phí, tham ô khá phổ biến. Từ đó dẫn đến hiệu quả kinh tế
ngày càng giảm sút và người xã viên không gắn bó cùng hợp tác xã.
Đối với sở hữu toàn dân, loại sở hữu này cũng dẫn đến tình trạng vô chủ vì
người lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chỉ là người làm công ăn
lương. Còn giám đốc tuy do nhà nước bổ nhiệm nhưng họ cũng là người hưởng

hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới”. (Điều
16). [14].
Để thực hiện mục đích trên, chính sách kinh tế được xây dựng gồm các nội
dung:
2.2.1. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Trong Nghị quyết số 51/2001/QH10, chính sách này được sửa đổi như sau:
“Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN”. [21].
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường
vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải
đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình
trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong
những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế:
người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua và
người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao
giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các phương
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
thức sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ
thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ
sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức sản xuất trong lịch
sử. Sự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hóa
của xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến.
Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa
tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị trường và của chủ nghĩa tư bản

- Vai trò của sở hữu nhà nước không hề được coi trọng trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa. Đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sở
hữu nhà nước được xác định là thành phần chủ yếu, là nền tảng cơ bản của nền
kinh tế quốc dân. Chủ thể của nền kinh tế chính là các doanh nghiệp nhà nước và
các hợp tác xã. Trong các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã đó, không có
quan hệ tư bản và lao động làm thuê như dưới chủ nghĩa tư bản.
- Mục tiêu phát triển kinh tế gắn với mục tiêu xã hội: trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, mục tiêu lợi nhuận là tâm điểm khiến cho các thành
phần kinh tế đều vươn tới. Bằng mọi biện pháp, thủ đoạn, các nhà sản xuất tìm
mọi cách để thu được nhiều lãi. Hình thức phân phối chủ đạo là phân phối theo
tư bản. Chính vì vậy mà thị trường tư bản chủ nghĩa phải hoạt động theo quy luật
lợi nhuận, gây ra sự phân hóa giai cấp, tình trạng bất công xã hội khó khắc phục
được. Đó cũng là nguồn gốc sinh ra mọi sự suy đồi và tệ nạn đang hoành hành
một cách phổ biến trong xã hội tư sản. Trái lại, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN luôn chú trọng đến các mục tiêu xã hội. Kinh tế phát triển đồng thời với
nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường các phúc lợi xã hội, hạn chế khoảng
cách giàu nghèo, chăm lo đến các đối tượng chính sách, xây dựng các công trình
công cộng… Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế thị trường
mang đậm tính nhân văn, nhân đạo. Đây là đặc điểm mà bất kỳ nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa nào cũng không thể có được. Điều này được giải thích là
do bản chất của chế độ xã hội quy định.
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN;
rằng CNXH và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau. Theo tôi, ý kiến
này không phù hợp. Lý do là vì, hoặc ý kiến này muốn trì kéo Việt Nam trong
quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng XHCN, không
muốn Việt Nam đi lên CNXH. Đó là điều trái với quy luật khách quan, không thể
chấp nhận. Hoặc cũng có thể do ý kiến này xuất phát từ những người chưa thoát

tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của hệ
thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN. Chính tính chất,
đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của
nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao
hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nướcXHCN, phát triển khoa học và công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian
không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nhiều
thay đổi: nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch và chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa
các ngành các cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, tập thể với lợi ích của nhà nước.
2.2.2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng phấn khởi, được bạn bè thế giới đánh giá cao. Những thành tựu đó là nhờ
sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới tư duy kinh tế, đưa nền kinh tế nhiều thành
phần thay cho việc chỉ chú trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Sự nhận
thức rõ về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện cho đất nước
khởi sắc. Thực tiễn cho thấy phát triển kinh tế hàng hóa là giai đoạn thấp của
kinh tế thị trường, cho nên đẩy mạnh sản xuất hàng hóa trong điều kiện đất nước
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
23
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP LÊ THỊ THU HÀ – LỚP HC31B
còn nghèo thì phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng hướng. Đến Đại
hội Đảng X, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân là một bước nhận thức mới
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

dụng đồng rúp, thì nay chuyển sang quan hệ ngày càng nhiều với các nước và
các tổ chức quốc tế sử dụng đồng đô-la Mỹ. Không những thế, quan hệ với các tổ
chức kinh tế trên thế giới (như WTO, EU) cũng như trong khu vực (như
ASEAN) không ngừng được mở rộng và tăng cường để phù hợp với chiến lược
mở cửa thị trường cũng như xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng phổ biến, thu
hút nhiều quốc gia tham gia.
Trước đây chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước ta là nhà nước nắm
độc quyền về ngoại thương, chính sách này làm hạn chế sự phát triển, không phát
huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế khác. Do đó, Hiến pháp 1992 đã
sửa đổi một cách cơ bản, thay vì nhà nước nắm độc quyền thì nay nhà nước chỉ
thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Đây là chính sách
tiến bộ và hợp lý, vừa có sự quản lý của nhà nước để giữ vững định hướng
XHCN vừa tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế được phát triển năng động,
sáng tạo, thích ứng kịp thời với những thay đổi của nền kinh tế thế giới.
Ví dụ: các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ký hợp đồng xuất khẩu
sản phẩm với các quốc gia có nhu cầu.
2.2.5. Khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nội dung này được quy định tại Điều 25 Hiến pháp 1992 và trong khoản 10
Điều 1 Nghị quyết số 51 được sửa đổi như sau: “Nhà nước khuyến khích các tổ
chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp
luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế… Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước”.
[21].
CHÍNH SÁCH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM THEO HIẾN PHÁP 1992
25

Trích đoạn Đối với kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoà Thực tiễn thực hiện Phương hướng, giải pháp
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status