BÁO CÁO THỰC TẬP-KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ PHÒNG BIẾN CHỨNG CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN XANH PÔN, HÀ NỘI, NĂM 2012 - Pdf 27

TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ HÀ NỘI
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG NỘI
TÊN ĐỀ TÀI
TÊN ĐỀ TÀI
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ
PHÒNG BIẾN CHỨNG CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐANG
PHÒNG BIẾN CHỨNG CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYP 2 ĐANGĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN XANH PÔN, HÀ NỘI, NĂM 2012
ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN XANH PÔN, HÀ NỘI, NĂM 2012
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thúy Anh
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thúy Anh
HÀ NỘI, 2012
HÀ NỘI, 2012
MỤC LỤC
MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1: Mô tả đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 37
Bảng 2: Tiền sử bệnh 37
Bảng 3: Kiến thức về biểu hiện bệnh 38
Bảng 4: Kiến thức về cách tuân thủ điều trị 38
Bảng 5: Biến chứng của ĐTĐ 39
Bảng 6: Hậu quả của biến chứng bệnh ĐTĐ 39
Bảng 7: Yếu tố làm trầm trọng bệnh 39
Bảng 8: Cách phòng biến chứng 40
Bảng 9: Đặc điểm về hướng dẫn CĐ ăn, tuân thủ CĐ ăn, các thức ăn cần tránh40
Bảng 10: Đặc điểm về hướng dẫn CĐLT, tuân thủ CĐLT, thời gian LT, tần suất LT
41

QĐ Quyết định
TH Thực hành
THA Tăng huyết áp
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh
WHO Tổ chức y tế Thế giới
TÓM TẮT BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa rất thường gặp ở các nước và đã trở
thành vấn đề y tế xã hội nghiêm trọng. Hiện thế giới có khoảng 180 triệu người mắc bệnh
đái tháo đường và con số này có thể tăng lên 366 triệu người vào những năm 2030, trong
đó 90% là ĐTĐ typ 2.
Ở Việt Nam, tình hình mắc bệnh ĐTĐ đang có chiều hướng gia tăng đặc biệt là tại
các thành phố lớn. Theo kết quả thống kê năm 2001 tỷ lệ ĐTĐ tại khu vực nội thành của
bốn thành phố lớn là 4,0%; tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose là 5,1% và đến năm 2003 tỷ lệ
ĐTĐ tại khu vực thành phố là 4,4%. Trong các typ của ĐTĐ thì typ 2 chiếm tỷ lệ cao nhất
(>90%) và thường diễn tiến âm ỉ trong nhiều năm. Khi các biến chứng lần lượt xảy ra thì
việc điều trị rất tốn kém và hoàn toàn không khỏi. Vì vậy, kiến thức – thực hành về tuân
thủ điều trị của bệnh nhân ĐTĐ typ 2 rất quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay, trong phạm vi
nghiên cứu kiến thức, thực hành về tuân thủ điều trị bệnh ĐTĐ thì chưa thấy có nghiên cứu
nào.
Thành phố Hà nội là thủ đô của nước Việt nam, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội. Với mật độ dân số đông, là nơi thu hút người dân ở các tỉnh về Hà nội làm
ăn sinh sống. Chính vì vậy, việc kiểm soát và đưa kiến thức phòng chống bệnh ĐTĐ đến
người dân gặp rất nhiều khó khăn cho những người làm trong ngành y tế nói chung.
Chương trình khám và điều trị ngoại trú cho người bệnh ĐTĐ đã được các bệnh viện đóng
trên địa bàn thành phố Hà nội triển khai trong nhiều năm nay. Nhưng đến nay, mạng lưới
chăm sóc và quản lý người bệnh ĐTĐ hầu như chỉ dừng ở mức người bệnh đến khám định
kỳ theo sổ và cấp phát thuốc, chưa đáp nhu cầu chăm sóc toàn diện của người bệnh và
không giám sát được sự tuân thủ điều trị cho người bệnh ĐTĐ.

mạch, đặc biệt ở những người bệnh ĐTĐ typ 2, thì chế độ ăn – vận động thể lực là phương
pháp điều trị lâu dài bệnh ĐTĐ [13].
Điều trị tốt ĐTĐ nhằm nâng cao chất lượng sống, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân và
giảm chi phí cho toàn xã hội. ĐTĐ là bệnh mãn tính chưa có khả năng điều trị khỏi hoàn
toàn mà phải điều trị suốt đời, dễ làm bệnh nhân chán nản bỏ cuộc, một số bệnh nhân
không hiểu được tầm quan trọng của việc dùng thuốc nhất là ĐTĐ typ 2, hoặc vì lý do kinh
tế. Việc giáo dục, tư vấn, cung cấp những kiến thức, thực hành trong việc tuân thủ điều trị
lâu dài cho bệnh nhân không chỉ phụ thuộc vào người thầy thuốc mà cần có sự hợp tác tốt
giữa bệnh nhân – gia đình – thầy thuốc để đạt hiệu quả cao trong kiểm soát đường huyết và
phòng ngừa được một số biến chứng do bệnh đái tháo đường gây nên.
Bệnh viện Xanh pôn nằm trên địa bàn quận Ba đình- Hà nội. là một bệnh viện đa
khoa cấp 1 của thành phố. Bệnh viện tiếp nhận chữa bệnh cho các đối tượng nhân dân
thuộc thành phố Hà nội. Số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện đúng tuyến
và vượt tuyến ngày một gia tăng. Để quản lý và giám sát về chế độ tuân thủ điều trị của
những người bệnh ĐTĐ tại cộng đồng là một vấn đề khó khăn đối với nhân viên y tế.
Số liệu về thực trạng bệnh đái tháo đường tại thành phố Hà nội, thông tin về các yếu
tố liên quan đến kiến thức, thực hành tuân thủ chế độ điều trị bệnh đái tháo đường là rất
cần thiết. Những số liệu này sẽ giúp cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá đúng về
tình hình mắc bệnh, nguy cơ phát triển bệnh, hiệu quả của các biện pháp phòng chống và
điều trị để xây dựng kế hoạch quản lý, phòng chống biến chứng của bệnh đái tháo đường
một cách thiết thực nhất.
Xuất phát từ mục đích này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá kiến thức,
thực hành về tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường typ 2
đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh pôn, Hà nội, năm 2012”.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá kiến thức, thực hành về tuân thủ chế độ ăn uống, luyện tập và dùng thuốc
của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 đang điều trị ngoại trú tại bệnh viện Xanh pôn –
Hà nội, năm 2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về tuân thủ chế độ ăn
uống luyện tập và dùng thuốc của bệnh nhân đái tháo đường typ 2 đang điều trị

đái tháo đường phụ thuộc vào insulin. Có xu hướng biến chứng hôn mê toan huyết. Người
bệnh đái tháo đường typ 1 dễ bị tử vong nếu không được cung cấp đủ insulin hằng ngày.
- Đái tháo đường typ 2: (đái tháo đường không phụ thuộc vào insulin) là thể đái tháo
đường kháng insulin hoặc giảm khả năng bài tiết insulin, chiếm đa số bệnh nhân mắc đái
tháo đường nói chung (90%), thường xảy ra ở người lớn tuổi, nhưng có xu hướng trẻ hóa,
đường huyết thường tăng cao nhiều năm trước khi được chẩn đoán, bệnh thường biểu hiện
có các triệu chứng nhẹ, được chẩn đoán tình cờ hoặc khi bệnh đã có các biến chứng do
bệnh đái tháo đường gây nên. Đa số bệnh nhân thuộc loại béo (90% các bệnh nhân ở các
nước đã phát triển). Phần lớn bệnh đái tháo đường typ 2 là do hậu quả của tình trạng tăng
cân và ít hoạt động thể lực.
- Đái tháo đường thai kỳ: do rối loạn dung nạp glucose, xuất hiện lần đầu tiên khi có thai,
và thường mất đi sau đẻ. Loại đái đường này gặp từ 1- 2% ở người mang thai có tiền sử gia
đình có đái đường, tiền sử thai nhi chết trước khi sinh hoặc dị dạng,
1.1.4. Dịch tễ học bệnh đái tháo đường:
1.1.4.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới:
Đái tháo đường là một bệnh rối loạn chuyển hóa rất thường gặp ở các nước phát
triển và đang phát triển, đã trở thành vấn đề y tế và xã hội nghiêm trọng. Tốc độ phát triển
của bệnh rất lớn. Nó là một trong ba bệnh (ung thư, tim mạch, đái tháo đường) phát triển
nhanh nhất. Theo công bố của WHO 1985 có 30 triệu người trên thế giới bị đái tháo đường
thì năm 1994 là 98,9 triệu người. Theo ước tính của Viện nghiên cứu đái tháo đường quốc
tế vào năm 2000 có khoảng 157,3 triệu người và năm 2010 có 215,6 triệu người bị ĐTĐ
[13].
Bệnh có xu hướng tăng rõ rệt theo thời gian và sự tăng trưởng kinh tế. Ở các nước công
nghiệp phát triển ĐTĐ type 2 chiếm 70-90% tổng số bệnh nhân bị ĐTĐ. Tuy nhiên có sự
khác nhau vì tỷ lệ mắc bệnh giữa các vùng lãnh thổ.
Theo số liệu công bố tại hội nghị ĐTĐ tháng 12 năm 1997 tại Singapore cho thấy số
bệnh nhân bị ĐTĐ ở 10 nước điển hình như sau:
Tên nước Số bệnh nhân ĐTĐ 1995 (triệu) Số bệnh nhân ĐTĐ 2025 (triệu)
Ấn Độ 19,4 57,2
Trung Quốc 16,0 37,6

đô thị và khu công nghiệp tỷ lệ cao tới 4,4%). Đặc biệt, tỷ lệ bệnh trong nhóm người có
yếu tố nguy cơ là rất cao (10%) [6]. Theo các cuộc điều tra mới đây tại một số vùng ở miền
Bắc và miền Nam Việt Nam cho thấy tỷ lệ mắc bệnh vào khoảng 3-5% [13].
1.1.5. Biến chứng đái tháo đường
Bệnh đái tháo đường là bệnh nguy hiểm đe dọa đến tính mạng và gây ra nhiều biến
chứng. Theo hiệp hội đái tháo đường quốc tế, đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong
đứng hàng thứ tư hoặc thứ năm ở các nước phát triển và đang được coi là một dịch bệnh ở
nhiều nước đang phát triển, những nước mới công nghiệp hóa. Những biến chứng của bệnh
đái tháo đường thường rất phổ biến (50% bệnh nhân bị đái tháo đường có các biến chứng)
như bệnh mạch vành, các bệnh mạch máu ngoại vi, đột quị, bệnh lý thần kinh do đái tháo
đường, cắt đoạn chi, suy thận và mù lòa. Các biến chứng này thường dẫn đến tàn tật và
giảm tuổi thọ [14].
Khi nói về ĐTĐ thật khó nếu không nói đến các biến chứng của nó. Bệnh ĐTĐ
được đặc trưng bởi những biến chứng, mà nhất là những biến chứng mãn hơn là cấp:
Những biến chứng cấp, hoặc do bản thân bệnh lý tiểu đường (nhiễm ceton acid, hôn
mê tăng áp lực thẩm thấu), hoặc do điều trị (hạ đường huyết, nhiễm acid lactic)
Vào những năm 1920, nhiễm ceton acid là nguyên nhân chính gây tử vong cho bệnh nhân
ĐTĐ nhưng khi có sự xuất hiện của Insulin tỉ lệ tử vong giảm dần. Tỉ lệ mới nhiễm ceton
acid hàng năm là 12,5% bệnh nhân ĐTĐ với tỉ lệ tử vong 2 – 5% ở các nước phát triển, 6 –
24% ở các nước đang phát triển. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu có tần suất thấp hơn,
khoảng 1/6 – 1/10 nhiễm ceton acid nhưng có tỉ lệ tử vong cao 20 – 60% [23], [25]. Còn
nhiễm acid lactic là một rối loạn có thể xảy ra trong nhiều bệnh cảnh lâm sàng, tỉ lệ xuất
hiện 0,5 – 3,8% các trường hợp nhập viện.
Hạ đường huyết là một trong những biến chứng thường gặp nhất xảy ra ở bệnh nhân điều
trị bằng Insulin hoặc uống Sulfonylureas đặc biệt ở bệnh nhân lớn tuổi hoặc bệnh nhân có
suy gan, suy thận, hoặc do trì hoãn bữa ăn, hoặc vận động thể lực mà không cung cấp đủ
calories hoặc không giảm liều Insulin.
Tất cả bệnh nhân ĐTĐ đều bị đe dọa về lâu dài bởi những biến chứng thoái hóa mãn
tính, có thể ảnh hưởng đến tiên lượng sống còn. Những biến chứng có thể thấy cả 2 typ
nhưng một số thường gặp ở typ này hơn typ kia: suy thận liên quan đến vi mạch thận là

 Điều trị thích hợp các bệnh lý đi kèm.
1.1.6.3. Nguyên tắc điều trị
Để điều trị đạt kết quả cần kết hợp giữa chế độ dùng thuốc, chế độ luyện tập và chế
độ ăn uống đúng. Điều quan trọng là những chế độ này là khác nhau đối với mỗi người,
thậm chí ở cùng một người bệnh là khác nhau theo từng giai đoạn bệnh. Việc tìm ra một
chế độ điều trị thích hợp cho mỗi người đòi hỏi nhiều công phu, không chỉ từ phía người
thầy thuốc mà còn cần phối hợp bệnh và gia đình họ [8].
*Với người đái tháo đường typ 1: Bắt buộc phải điều trị bằng insulin
Mục đích điều trị để đạt được:
- Mức glucose máu trước ăn là 4- 7mmol/l.
- Mức glucose máu sau ăn là 5- 10mmol/l.
- Mức HbA1c máu < 6,5%.
a. Sử dụng insulin: Phải xem sử dụng insulin như một nghệ thuật điều trị bệnh. Luôn cần
có sự điều chỉnh về liều lượng, về đường tiêm truyền insulin trong những điều kiện khác
nhau [8].
- Theo dõi điều trị insulin
- Theo dõi các biến chứng:
+ Hạ glucose máu
+ Dị ứng insulin
+ Kháng insulin do miễn dịch
+ Phản ứng tại chỗ tiêm insulin
b. Chế độ ăn uống
Chế độ ăn uống là nguyên tắc cơ bản trong điều trị đái tháo đường, tuy nhiên theo nhiều
nghiên cứu cho tới nay già nửa số người bệnh chưa kiểm soát được chế độ ăn [8].
Nguyên tắc: Chế độ ăn phải đủ năng lượng để duy trì cân nặng lý tưởng, đảm bảo sự phát
triển bình thường người bệnh (thường trẻ em và vị thành niên)
Người ta thường chia các bữa ăn trong ngày như sau:
+ Bữa sáng: sau tiêm 30 phút
+ Bữa phụ: sau tiêm mũi thứ nhất 3 giờ
+ Bữa trưa: sau tiêm mũi thứ nhất 5 giờ

• Phối hợp với thuốc điều trị (nếu có).
+ Chế độ ăn rất quan trọng là vì:
• Không tạo ra sự dư thừa nặng lượng. Thừa nặng lượng là nguyên nhân gây thừa cân,
béo phì, cũng là nguyên nhân gây ra các bệnh lý chuyển hóa như rối loạn lipid, tăng
acid uric v.v.
• Ăn đúng mới duy trì được lượng glucose máu phù hợp, không gây thừa, gây nhiễm
độc đường hoặc không gây hạ đường máu vì chế độ ăn khắc khổ, thiếu năng lượng.
Như vậy, không thể có một chế độ ăn chung cho tất cả mọi người mắc bệnh ĐTĐ. Để có
một chế độ phù hợp cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh, cận phải có
thời gian để đánh giá cho đúng.
+ Theo nhiều nghiên cứu, nhu cầu năng lượng đảm bảo cho hoạt động của một người bình
thường ở nữ là 30- 35 calo/kg/ngày; ở nam là 35- 40 calo/kg/ngày. Tổng lượng calo này
được chia ra với các tỷ lệ khác nhau về đường, đạm, mỡ cho phù hợp.
b. Lựa chọn chế độ ăn
- Chế độ ăn xơ: Thành phần thực vật trong chế độ ăn này chiếm chủ yếu, gồm các thành
phần như cellulose, kẹo cao su và pectin.
+ Các chất xơ đặc như cellulose hoặc bán cellulose như cám, có xu hướng tăng thời gian
vận chuyển qua ruột non, loại này có thể có ích cho chức năng đại tràng.
+ Các chất xơ lỏng: như gum và pectin thường thấy trong đậu và bột yến mạch, vỏ táo.
Chúng đều có xu hướng giảm thời gian vận chuyển qua dạ dày và ruột để hấp thu glucose
thấp hơn và hạn chế được sự tăng glucose máu.
-Lựa chọn chế độ ăn dựa vào chỉ số glucose máu:
Jenkin (1981) đưa ra chỉ số glucose máu- Glycemic Index (GI) – để tìm mối liên
quan giữa các thực phẩm có lượng carbohydrat khác nhau. Theo Jenkin, GI là mức glucose
máu 3 giờ sau ăn của một thức ăn định nghiên cứu có chứa 50 carbohydrat với mức
glucose máu 3 giờ sau ăn được coi là glucose máu (g/l), trục hoành là thời gian (giờ), S1 là
diện tích glucose máu của thực phẩm định nghiên cứu, S2 là diện tích thức ăn chuẩn, ta có:
GI = S1/S2 x 100
Trước đây thực phẩm chuẩn thường là glucose, hiện nay người ta lấy bánh mì trắng
làm thực phẩm chuẩn.

Protid 15- 20 15- 20
Lipid 35 30
**
*
Việt nam đề nghị 60- 65%.
**
Việt nam đề nghị 15- 20%.
- Điều chỉnh nhu cầu năng lượng:
Trong một số trường hợp cần điều chỉnh mức năng lượng cho phù hợp với đặc điểm
nghề nghiệp.
Bảng: Nhu cầu năng lượng điều chỉnh theo giới và mức lao động nặng nhẹ
Mức lao động Nam Nữ
Tĩnh tại 30Kcal/kg 25Kcal/kg
Vừa 35Kcal/kg 30Kcal/kg
Nặng 45Kcal/kg 40Kcal/kg
- Các thức ăn thay thế cùng nhóm
+ Glucid: ngũ cốc và sản phẩm từ ngũ cốc, rau, củ, quả.
+ Protid: Thịt, cá, thủy sản và các sản phẩm chế biến
+ Lipid: Dầu, mỡ.
+ Sữa và các sản phẩm từ sữa.
+ Đường, bánh. Mứt, kẹo.
+ Rượu và đồ uống có ga.
- Lựa chọn thức ăn theo hàm lượng glucid
+ ≤ 5% glucid: đa số là rau xanh; ăn tự do.
+ Từ 10% đến 20% glucid: ăn hạn chế.
+ > 20% glucid: không ăn.
- Vitamin và các vi chất khác
Đối với người bệnh ĐTĐ, trong chế độ ăn cần đặc biệt chú ý việc bồi phụ kali, một
chất điện giải thường có nồng độ thấp ở nhóm này. Kali thường có hàm lượng cao trong
các thức ăn như cá biển. Ngược lại, nên hạn chế natri.

các yếu tố dự báo quan trọng của nguy cơ tim mạch của người bệnh đái tháo đường.
Các chỉ số cần thu thập, đánh giá, theo dõi
- Đánh giá sự kiểm soát glucose máu.
- Có hay không các biến chứng của ĐTĐ.
- Tình trạng tim mạch, huyết áp, trí nhớ.
- Tình trạng bàn chân và tuần hoàn ngoại vi.
- Tình trạng đáy mắt.
- Hướng dẫn người bệnh tự theo dõi trước và sau khi luyện tập.
- Cần lưu ý theo dõi người cao tuổi bị mắc ĐTĐ typ 2 khi luyện tập vì nhóm đối tượng này
thường có nhiều bệnh tiềm ẩn đi kèm. Do vậy phải thăm khám kỹ để thiết lập chế độ luyện
tập phù hợp. Người cao tuổi thường chỉ có tăng glucose máu nhẹ, chỉ cần điều chỉnh bằng
chế độ ăn và chế độ luyện tập là đủ để đưa nồng độ glucose máu trở về bình thường.
Trường hợp này ít khi xảy ra hạ glucose máu khi luyện tập.
Người ĐTĐ typ 2 luyện tập nhằm đạt được tác dụng điều chỉnh glucose máu thông
qua việc làm giảm tình trạng kháng insulin nhờ:
+ Giảm cân nặng, nhất là những đối tượng thừa cân, béo phì.
+ Giảm kháng Insulin.
Để đạt được mục đích này hàng ngày phải luyện tập khoảng 30- 45 phút, mỗi tuần
tập ít nhất là từ 4 đến 5 ngày.
g. Thuốc điều trị trong đái tháo đường typ 2
Mục đích
Điều trị bằng thuốc trong ĐTĐ typ 2 nhằm:
- Giảm cân nặng (với người béo) hoặc không tăng cân (với người không béo).
- Duy trì được lượng glucose máu khi đói, glucose máu sau ăn gần như mức độ sinh lý, đạt
được mức HbA1c lý tưởng, sẽ giảm được các biến chứng có liên quan đến ĐTĐ, giảm tỷ lệ
tử vong do ĐTĐ.
Nguyên tắc
- Dùng thuốc phải kết hợp với chế độ ăn và luyện tập.
- Phải phối hợp điều trị hạ glucose máu, điều chỉnh các rối loạn lipid, duy trì số đo huyết áp
hợp lý, chống các rối loạn đông máu…

cho cả người ĐTĐ typ 1 và typ 2.
- Glucose huyết tương lúc đói: có thể lúc đầu mỗi tháng một lần. Khi đã ổn định có thể 3
tháng một lần.
Trường hợp đặc biệt (mắc bệnh cấp tính hoặc sau phẫu thuật,…) định lượng glucose
máu theo chỉ định của bác sĩ.
- Creatinin, ure huyết tương thường được làm cùng với glucose huyết tương lúc đói.
- Các thăm dò chức năng gan nên được tiến hành trước, trong và sau một thời gian sử dụng
thuốc mới.
- HbA1c: là chỉ số đánh giá kết quả quản lý lượng glucose máu trung thành nhất. Buộc phải
làm 3 tháng/lần, nếu không có điều kiện thì 6 tháng/lần. Những cơ sở chưa có HbA1c có
thể thay bằng theo dõi lượng glucose huyết tương. Trong trường hợp này mức glucose
huyết tương lúc đói phải luôn bằng và/hoặc thấp hơn 6,0mmol/l.
- Microalbumin niệu: phải được thăm dò ngay khi mới phát hiện bệnh (với người ĐTĐ typ
2) và thường sau 3- 5 năm (với người ĐTĐ typ 1). Sau đó hàng năm phải được kiểm tra lại
tùy theo chỉ định của thầy thuốc.
- Độ ngưng tập tiểu cầu: Được theo dõi khi có chỉ định dùng các thuốc như aspirin, asperic
và các thuốc chống đông máu khác. Thường 3 tháng một lần.
- Các chỉ số về lipid máu thường 3- 6 tháng một lần. Trường hợp đặc biệt chỉ định theo tình
trạng người bệnh và nhu cầu điều trị.
1.1.7.2. Đánh giá hệ thống hormon đối lập
Thường 1 năm một lần.
1.1.7.3. Những thăm khám định kỳ khác
- Khám bàn chân người đái tháo đường
Khám lâm sàng (sử dụng dụng cụ) thường để đánh giá tình trạng chung như nhiệt độ, tình
trạng mạch máu, tình trạng thần kinh cảm giác, thần kinh vận động.
+ Khám lần đầu tiên
+ Sau đó 3- 6 tháng/lần
Sử dụng các kỹ thuật thăm dò khác để đánh giá tình trạng mạch máu và thần kinh
+ Định kỳ 1 năm/ lần.
- Khám đáy mắt: Người ĐTĐ typ 1thường có biến chứng đáy mắt sau 5 năm bệnh được


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status