Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất khẩu và thực tiễn áp dụng tại công ty gạch ốp lát Hà Nội - Pdf 28

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Tên đề tài:
Chế độ pháp lý về hợp đồng xuất khẩu và thực tiễn áp dụng tại
công ty gạch ốp lát Hà Nội.
Sinh viên thực hiện: Trần sỹ Quảng
Giáo viên hướng dẫn: Ths Đỗ Kim Hoàng.
Khoa : Luật kinh tế
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
1
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay với xu hướng nền kinh tế nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới. Với việc
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tố chức Thương mại Thế giới (WTO )
đã mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Trong bối
cảnh như vậy việc tham gia vào thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải hiểu rõ về luật pháp quốc tế. Trong thực tế vì thiếu hiểu biết về pháp luật
quốc tế nhất là pháp luật về thương mại quốc tế mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã
chịu thiệt thòi khi phát sinh tranh chấp với doanh nghiệp nước ngoài. Do đó việc tìm
hiểu về pháp luật thương mại quốc tế là rất quan trọng, nhất là trong quá trình ký kết
và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Xuất phát từ thực tế trên chuyên đề này tập trung
nghiên cứu về: Chế độ pháp lý của hợp đồng xuất khẩu hàng hoá và thực tiễn áp
dụng tại công ty gạch ốp lát Hà Nội.
Với mong muốn áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, chuyên đề này tập
trung tìm hiểu một số vấn đề pháp lý của hợp đồng xuất khẩu và thực tiễn áp dụng
trong công tác ký kết và thực hiện của công ty gạch ốp lát Hà Nội, đồng thời đưa ra
những kiến nghị đối với công ty và nhà nước nhằm nâng cao chất lượng của công tác
ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu của công ty.
Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm 3 chương

kết nối nền sản xuất trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa
nền kinh tế.
-Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước, qua đó ngoại thương đáp ứng tốt
mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống, nâng cao giá trị sử dụng của người tiêu dùng.
Những chức năng trên của kinh tế đối ngoại được thực hiện thông qua hoạt động
của các doanh nghiệp, của đội ngũ cán bộ kinh doanh. Để thực hiện chức năng này có
hiệu quả kinh tế đối ngoại cần sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý ngoại
thương theo một cơ chế thích hợp cho từng thời kỳ phát triển.
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
3
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Chính sách ngoại thương của Việt Nam
Thời kỳ trước đổi mới,từ năm 1986 tở về trước, chính sách ngoại thương của
Việt Nam bị chi phối bởi nguyên tắc Nhà nước độc quyền về ngoại thương.Mọi hoạt
động xuất nhập khẩu đều do các tổng công ty thuộc bộ Ngoại Thương trên cơ sở đã
được cấp trên phê duyệt
Cơ chế quản lý tập trung, bao cấp đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động ngoại
thương, đặc biệt là xuất khẩu, và phát triển hàng xuất khẩu.Nhằm khắc phục tình
trạng trì trệ của nền kinh tế, hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần VI đã đề ra
một số biện pháp cải tiến cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương, đặc biệt là quản lý
xuất nhập khẩu.Thực hiện chủ trương mở cửa để hội nhập với nền kinh tế khu vực và
trên thế giới trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay với chính sách đổi mới hoạt động
nền kinh tế nước ta đã có những bước biến đổi về chất. Ngoại thương (đặc biệt là
xuất khẩu) được đề cao, được coi là một trong 3 chương trình trọng điểm của Việt
Nam.Chuyển hoạt động ngoại thương từ cơ chế tập trung, bao cấp sang hạch toán
kinh doanh, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sơ sản
xuất thuộc các thành phần kinh tế.Thị trường ngoài nước được mở rộng theo hướng
đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại
Chiến lược ngoại thương của Việt Nam thời kỳ 2001-2010.

Trong các văn bản pháp lý của Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “ hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế”, mà chỉ sử dụng thuật ngữ “ hợp đồng mua bán hàng hoá
với thương nhân nước ngoài”. Dưới góc độ pháp lý, hai thuật ngữ “ hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế” và “ hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài có cùng
một bản chất, đó là có sự tham gia của thương nhân nước ngoài hay nói cáh khác hợp
đồng có yếu tố nước ngoài.Trong luật Thương mại 2005, điều 20 quy định: Mua bán
hang hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập
tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu.
Trong Công ước LaHaye 1964 , quy định: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
là hợp đồng trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng
hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hơp
đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau.
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
5
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đã gián
tiếp định nghĩa khi quy định: Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua
bán hàng hoá dược ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các nước khác nhau
Ở nước ta trước đây loại hợp đồng này được thể hiên trong khái niệm “ hợp
đồng mua bán ngoại thương”. Điều 1,Quyết định 127-BNgT/XNK ngày 18/3/1986
của bộ ngoại thương quy định: Hợp đồng mua bán ngoại thương là những cam kết
giữa một bên là tổ chức xuất nhập khẩu của Việt Nam với một bên là khách hàng
nước ngoài nhằm thiết lập , thay đổi, đình chỉ,mối quan hệ nghĩa vụ và quyền lợi
trong lĩnh vực mua bán trao đổi hàng hoá, mua bán phát minh sáng chế kỹ thuật, cung
ứng dịch vụ gia công.
Quy chế tạm thới của bộ Thương Nghiệp số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991
hướng dẫn ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương đã định nghĩa “ hợp đồng mua
bán hàng hoá ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế ”.
Như vậy trong pháp luật Việt Nam chưa có một khái niêm rõ ràng và thông nhất về
hợp đồng mua bán hang hoá quốc tế

ngữ khác nhau, dẫn đến có những khái niệm được các bên hiểu khác nhau…).Do đó
việc xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chịu sự điều chỉnh của luật nào là
rất quan trọng. Điều này có thể được các bên xác định trong hợp đồng hoặc xác định
theo nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng.Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể
chịu sự điều chỉnh của các nhuồn luật khác nhau như các điều ước quốc tế, tập quán
thương mại quốc tế, pháp luật của cá quốc gia…
3.1 Điều ước quốc tế:
Điều ước quốc tế là các cam kết của các quốc gia trong các lĩnh vực nhất
định.Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế định nghĩa: “Điều ước quốc tế là
tất cả các văn bản được ký kết giữa các quốc gia và do Luật quốc tế điều chỉnh”
Luật ký kết , gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam 2005 quy
định tại điều 2.1: “Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập là thoả thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia nhập nhân danh nhà
nước hoặc nhân danh chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với một
hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luạt quốc tế không
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
7
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, hiệp ước, thoả thuận, nghị
định thư, bản nghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác.”
Dựa vào chủ thể tham gia thì điều ước quốc tế được phân thành hai loại: Điều
ước quốc tế song phương và điều ước đa phương
Dựa vào nội dung của điều ước có thể phân thành: Điều ước kinh tế thương
mại, điều ước chính trị quân sự, điều ước quốc tế về lãnh thổ biên giới
Một điều ước quan trọng trong lĩnh vực mua bán hàng hoá quốc tế là công ước
của Liên hợp quốc về mua bán quốc tế dựoc ký kết ngày 11-4-1980 tại Viên, Áo
Điều ước quốc tế về kinh tế thương mại thường được chia làm hai loại:
-Các điều ước quốc tế quy định những quy tắc pháp lý chung mang tính chỉ đạo
đối với các hành vi thương mại như hiệp định GAAT/WTO.
-Các điều ước quốc tế quy định một cáh trực tiếpcá quyên và nghĩa vụ của các

trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế.
Như vậy tập quán thương mại quốc tế có những đặc điểm sau:
-Là quy tắc xử sự được hình thành từ lâu đời;
-Có tính phổ biến, tức là được áp dụng rộng rãi trong hoàn cảnh tương tự.
Các tập quán thương mại quốc tế cũng có thể trở thành nguồn luật điều chỉnh đối với
các hợp đồng thương mại quốc tế, nếu được các bên thoả thuận áp dụng tập quán và
đưa chúng vào hợp đồng. Nếu các tập quán đã được dẫn chiếu vào hợp đồng sẽ có
hiệu lực bắt buộc với các chủ thể ký kết. Điều1.8 của PICC quy định: “Các bên trong
hợp đồng cần phải tuân theo những tập quán mà họ đã nhất trí và các quy ước đã
được xác định và ngầm hiểu.Các bên trong hợp đồng nên tuân theo những tập quán
phổ biến và thiết thực trong hoạt động mua bán của cá chủ thể thuộc cùng lĩnh vực
buôn bán trừ khi việc áp dụng tập quán đó vào hợp đồng này là phi lý”.
Ngoài ra tập quán thwog mại quốc tế được áp dụng trong trường hợp dù các bên
không thoả thuận về việc áp dụng nó trong hợp đồng, tuy nhiên tập quán được toà án
hay trọng tài công nhận với tư cách là nguồn điều chỉnh quan hệ giữa các bên theo
hợp đồng xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của vụ việc.
Một tập quán thông dụng trong buôn bán quốc tế được Phòng thương mại quốc
tế (ICC) tổng kết, soạn thảo và ban hành là các điều kiện thương mại quốc tế
(Incoterms-International Commercial Terms). Các bản Incoterms được biên soạn 10
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
9
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
năm một lần, các phiên bản mới ra đời không thay thế các phiên bản cũ, do Incoterms
không có giá trị bắt buộc áp dụng. Bản Incoterms 2000 là bản Incoterms mới nhất
gồm 4 nhóm và 13 điều kiện.Tuy nhiên không phải vấn đề nào cũng được giải quyết
trong Incoterms.
Những vấn đề mà Incoterms giả quyết đó là:
- Khi nào người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng (rủi ro khi nào được chuyển
từ người bán sang người mua)
- Ai là người làm thủ tục thông quan xuất nhập khẩu.

thoả thuận luật áp dụng cho hợp đồng là luật quốc gia của chủ thể nước ngoài,mặc dù
luật quốc gia của chủ thể nước ngoài cho phép hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
được ký kết bằng mọi hình thức kể cả bằng lời nói nhưng để hợp đồng có hiệu lực
trên lãnh thổ Việt Nam ,thì hợp đồng phải ký kết bằng văn bản theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Đối với các quy phạm nội dung, tức là các quy phạm quy định các quyền và
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thì việc áp dụng quy phạm này xuất phát từ:
- Sự thoả thuận của các bên.
- Theo nguyên tắc xung đột pháp luật.nếu các bên không thoả thuận luật áp
dụng thì luật áp dụng là luật của nước liên quan gần nhất.
4.Hình thức của hợp đồng.
Theo quy định của các điều ước quốc tế và của nhiều nước thì hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể là bằng văn bản, bằng lời nói, hoặc nhân
chứng. Điều11Công ước Viên quy định: Hợp đồng mua bán không cần phải được ký
kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức
của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng lời khai
của nhân chứng. Tại điều1.2 của PICC cũng quy định “Sự tồn tại của một hợp đồng
có thể được chứng minh bằng bất kỳ hình thức nào kể cả bằng nhân chứng”.
Theo pháp luật Việt Nam, thì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được ký
kết bằng văn bản (Điều 27 Luật Thương Mại 2005). Như vậy các đơn vị xuất nhập
khẩu của Việt Nam khi tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu cần ký kết hợp đồng
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
11
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
bằng văn bản.Việc quy định như vậy sẽ bảo vệ được thương nhân Việt Nam- những
người còn ít hiểu biết về luật pháp quốc tế trong quá trình ký kết và thực hiên hợp
đồng
II. CHẾ ĐỘ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU
1.Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Để hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có hiệu lực thì phải thoả mãn các điều kiện

Hợp đồng có thể ký kết bằng hai phương thức sau:
- Ký kết bằng phương thức trực tiếp (Đàm phán trực tiếp): Người đại diện có
thẩm quyền của các bên gặp nhau, cùng bàn bac, thương lượng về nội dung hợp
đồng, khi điều khoản cuối cùng được thống nhất các bên có thể ký trực tiếp vào hợp
đồng. Ưu điểm của phương thức này là các bên tham gia ký kết có điều kiện bàn bạc,
thống nhất kỹ lưỡng từng điều khoản của hợp đồng, tránh được sai sót hoặc hiểu
nhầm ý định của nhau.Tuy nhiên phương thức này có nhược điểm là các bên phải
chịu chi phí khá lớn cho việc đi lại, ăn, ở. Đàm phán trực tiếp được tiến hành trên cơ
sở các bên đưa ra những đề nghị cho nhau.Các bên đưa ra yêu cầu của mình đồng
thời có sự nhượng bộ phù hợp đối với các điều kiện của hợp đồng tương lai mà mình
đưa ra.Trong các cuộc đàm phán thường có sự tham gia của các chuyên gia (chuyên
gia kỹ thuât, luật pháp, tài chính…) và phiên dịch của cả hai bên, tuy nhiên những
người nay chỉ đóng vai trò tư vấn, bởi vì chỉ có các bên mới có quyền đưa ra quyết
định cuối cùng.
Trong đàm phán trực tiếp, các bên phải hành động một cách trung thực, thiện chí,
và phải có nghĩa vụ giữ bí mật cuộc đàm phán.
Việc tham gia đàm phán không bắt buộc các bên phải ký hợp đồng là đối tượng
của đàm phán, nghĩa là một trong các bên có quyền kết thúc cuộc đàm phán trong
trường hợp họ không thể đạt được mục đích của mình nếu tiếp tục cuộc đàm phán.
Trong đàm phán trực tiếp không cho phép kéo dài cuộc đàm phán mà không có chủ
định ký kết hợp đồng (ví dụ, vì mục đích cản trở bên kia ký kết hợp đồng với đối thủ
cạnh tranh với mình). Người nào có hành động như vậy sẽ được coi là lạm dụng lòng
tin của đối tác, và được coi là thực hiện hành vi có lỗi khi ký kết hợp đồng.Khi đó
bên bị thiệt hại có thể có quyền yêu cầu phía bên kia bồi thường thiệt hại.Trong
trường hợp này có thể được coi như trường hợp một bên biết trước được rằng họ
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
13
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
không thể biết thực hiện hợp dồng đã ký kết, nhưng không thông báo cho phía bên
kia biết.

Tuy nhiên chào hàng không thể bị thu hồi hay huỷ bỏ trong trường hợp sau:
- Nếu trong chào hàng có quy định thời gian trả lời
- Trong chào hàng ghi rõ là chào hang không triệu hồi
- Nếu như người được chào hàng đã có một thời gian hợp lý để coi chào hàng
như là một chào hàng không thể bị thu hồi và họ đã xử sự theo chiều hướng đó
(Điều16.2 công ướcViên)
Chào hàng luôn mất hiệu lực trong các trưòng hợp:
- Bị từ chối.
- Bên được chào hàng thay đổi nội dung của chào hàng thì chào hàng đó
được coi là một chào hàng mới
- Hết thời hạn được bên chào hàng hoặc luật pháp quy định trong chào hàng
- Chào hàng cũng mất hiệu lực nếu bị thu hồi hoặc trong trường hợp người
chào hàng bị chết hay xảy ra những tình huống làm cản trở việc thực hiện
hợp đồng
2.2.2 Chấp nhận chào hàng.
Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng cho bên chào hàng
về việc chấp nhận toàn bộ các điều kiện nêu trong chào hàng. Như vậy chấp nhận
chào hàng là sự thể hiện ý chí của người được chào hàng về việc đồng ý ký kết hợp
đồng trên cơ sở những điều kiện nêu trong chào hàng.Chấp nhận chào hàng phải rõ
ràng , không được thay đổi bất cứ một điều kiện nào của chào hàng. Nếu bên nhận
chào hàng yêu cầu sửa đổi bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng
thì hành vi đó dược coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới.Trong
trường hợp sự trả lời có cjứa những thay đổi hay bổ sung nhung không làm thay đổi
nội dung cơ bản của chào hàng thì vẫn được coi là chấp nhận chào hàng nếu như bên
chào hàng không thông báo ngay những thay đổi này cho phía bên kia (Điều 19.2
công ước Viên).Khi đó điều kiện của hợp đồng sẽ là những điều kiện đã được thay
đổi.Khoản 2, điều 19 công ước Viên quy định những thay đổi bổ sung liên quan đến
giá cả, phương thức thanh toán, khối lượng và chất lượng của hàng hoá, địa điểm và
thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm của một bên trước bên kia cũng như thủ tục
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45

3.Những nôi dung chủ yếu của hợp dồng
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
16
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Trước đây phấp luật Việt Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có
những nội dung chủ yếu theo quy dịnh , nhưng hiện nay điều đó là không bắt buộc,
hợp đồng nay có thể ký kết với nội dung mà các bên tự thoả thuận. Tuy nhiên để quá
trình thực hiện hợp đồng dược thuận lợi và tránh các tranh chấp xảy ra sau này thì nội
dung của hợp đồng cần có các điều khoản về:
-Tên hàng: Vì đây là hợp đồng mua bán có nhân tố nước ngoài nên tên gọi
hàng hoá rất đa dạng. Do đó trong điều khoản này, hàng hoá cần phải ghi một cách
đầy đủ rõ ràng chính xác, kèm theo tên thưogn mại, tên khoa học, tên hàng kèm theo
địa danh sản xuất, tên hàng hoá kèm theo tên hãng sản xuất, tên hàng kèm theo công
dụng của chúng.Nếu đối tượng của việc mua bán gồm nhiều mặt hàng, chủng loại
hàng hoá khác nhau thì phải ghi rõ danh mục của các mặt hàng đó.Danh mục của các
loại hợp đồng này có thể coi là phụ lục của hợp đồng.
-Số lượng :Số lượng hàng hoá là một trong những điều khoản quan trọng của
hợp đồng bởi vì nó liên quan đến việc xác định rõ đối tuợng của hợp đồng mua bán
cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên.Việc lựa chọn đơn vị đo lường phải
căn cứ vào tính chất của hàng hoá và tập quán thương mại quốc tế đối với các mặt
hàng cụ thể.
Dựa vào tính chất của hàng hoá có thể dùng các đơn vị phổ biến như: kg, tấn đối
với các mặt hàng như ngũ cốc đường…; lit, m
3
đối với các loại hàng như gỗ, chất
lỏng và các loại hàng hoá khác cần xác định bằng thể tích. Đối với một số loại hàng
thì có thể sử dụng đơn vị tính như: bao nhiêu cái, bao nhiêu chiếc, bao nhiêu kiện…
Ngoài ra, các bên cần phải thoả thuận rõ trong hợp đồng, là có hay không tính trongj
lượng bao bì vào khối lượng của hàng hoá.Trong thực tiễn mua bán hàng hoá quốc tế
bao giờ cũng nói rõ hai loại trọng lượng, đó là trọng lượng bao bì và trọng lượng tinh.

Ngoài ra thời hạn thanh toán cũng cần phả được quy định hết sức rõ ràng và chặt chẽ
trong hợp đồng. Thời hạn thanh toán thường, được xác định bởi một khoảng thời
gian cụ thể, rõ ràng. Ví dụ: người mua phải thanh toán trong khoảng thời gian 20
ngày làm việc của ngân hàng tính từ ngày hàng được giao cho người vận chuyển
-Địa điểm và thời gian giao hàng: Thời gian giao hàng là thòi hạn mà bên
bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua. Thời ạhn giao hàng có thể
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
18
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
được quy định là giao hàng trong một khoảng thời gian nhất định, giao một lần, giao
một chuyến, giao thành nhiều chuyến, hoặc thời hạn cuối cùng mà hàng phải giao.
Địa điểm cần được các bên xác định rõ trong hợp đồng vì việc lựa chọn địa điểm
giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức vận chuyển hàng hoá và địa điểm
nay thường tuỳ rhuộc vào điều kiện cơ sở.Ví dụ: trong hợp đồng mua bán theo điều
kiện CIF trách nhiệm giao hàng của bên bán hoàn thành khi hàng hoá được giao lên
tàu ở cảng đi.
III. THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT KHẨU.
1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng.
Sau khi hợp đồng đã được xác lập và có hiệu lực pháp lý thì các bên phải thực hiên
đúng nghĩa vụ mình cam kết theo những nguyên tắc:
- Nguyên tắc thực hiện đúng nghĩa vụ mình đã cam kết
- Nguyên tắc thiện chí và trung thực. Điều 1.7 của PICC quy định các bên trong
hợp đồng phải hành đồng phù hợp với tinh thần thiện chí và trung thực trong các giao
dịch thương mại quốc tế. Nghĩa vụ giao dịch theo nguyên tắc thiện chí và trung thực
của các bên là một đặc tính bắt buộc mà các bên không được loại bỏ hoặc hạn chế sử
dụng nó trong hợp đồng.
2. Thực hiện hợp đồng về nội dung.
Để thực hiện một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì doanh nghiệp cần phải
thực hiện những bước sau.
Vì là hợp đồng có mua bán hàng hoá quốc tế nên đàu tiên, doanh nghiệp cần phải

2.Các hình thức trách nhiêm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
Điều 292 của Luật Thương Mại 2005 quy định về các loại chế tài trong thương mại,
và các loại chế tài này còn được quy định cụ thể trong các điều ước quốc tế
2.1.Buộc thực hiên đúng hợp đồng
Điều 297 của luật Thương mại Việt Nam 2005 định nghĩa: Buộc thực hiện đúng
hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc
dùng các biện pháp khác đẻ hợp đồng đuợc thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi
phí phát sinh.
Điều 7.1.1 của PICC định nghĩa: Không thực hiện hợp đồng là việc một bên
không hoàn thanh một hay nhiều nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, kể cả việc thực
hiện không đúng quy cách hoặc thực hiện chậm.
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
20
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Mục 2 của PICC cũng quy định về quyền yêu cầu thực hiên hợp đồng . Điều7.2.2
của PICC quy định: Khi một bên có nghĩa vụ thực hiện một công việc nhưng không
thực hiện, bên kia có thể yêu cầu bên bị vi phạm thực hiện.Và theo PICC ( mục 2), thì
yêu cầu này có thể là yêu cầu thanh toán, sửa chữa hoặc đổi vật…Điều 46.1, điều 47
của công ước Viên cũng có quy định tuơng tự.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng luôn là biện pháp ưu tiên thực hiện trước khi áp
dụng các biện pháp khác.Người mua có quyền yêu cầu người bán thực hiện đúng
nghĩa vụ hợp đồng bằng các cách sau:
+ Nếu vi phạm là chậm giao hàng thì buộc thực hiện nghĩa vụ giao hàng.
+ Nếu giao hàng thiếu thì yêu cầu phải giao đủ.
+Yêu cầu thay thế hàng hoá không phù hợp với loại hàng hoá khác nếu sự không
phù hợp là nghiêm trọng.Tuy nhiên yêu cầu này chỉ có hiệu lực nếu người mua tuân
thủ thời hạn thông báo do các bên thoả thuận trong hợp đồng.
+ Nếu người bán không giao hàng cùng loại đúng quy định thay cho hàng hoá
không phù hợp thì người mua có quyền mua hàng mới thay thế và bên vi phạm phải
có nghĩa vụ thanh toán.

- Bên có quyền không cần phải chứng minh thiệt hại và mức độ thiệt hại;
- Có thể tránh được chi phí phát sinh khi tiến hành chứng minh thiệt hại, mức
độ của thiệt hại.
Số tiền bị phạt có thể được quy định trong hợp đồng hoặc do trọng tài hoặc toà án
quyết định.
2.3.Buộc bồi thường thiệt hại.
Điều 302 Luật Thương mại Việt Nam định nghĩa: Bồi thường thiệt hại là việc
bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng.
Điều 7.4.1 của PICC quy định”: Bất kỳ việc không thực hiện nghĩa vụ nào
cũng cho phép bên bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại, hoặc chỉ yêu cầu bồi thường
thiệt hại hoặc đồng thời với những yêu cầu có các biện pháp khác., trừ khi việc không
thực hiệ này được miễn trừ trách nhiệm theo PICC” Số tiền bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi bên bi vi pham đáng lẽ được hưởng
nếu không có hành vi vi phạm (điều 302.2 luật thương mại 2005). Số tiền bồi thường
thiệt hại không cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.Theo điều 74
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
22
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
Công ước Viên thì mức bồi thường không cao hơn mức tổn thất và khoản lợi được
hưởng mà bên kia vi phạm đã dự liệu được hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký
hợp đồng.
Tổn thất trực tiếp bao gồm:
- Hàng hoá bị hư, mất mát;
- Chi phí đã được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng để phục hồi hay loại bỏ khuyết
tật của hàng hoá.
Khoản lợi đáng lẽ được hưởng là những khoản lợi mà đáng lẽ bên bị thiệt hại
được hưởng trong điều kiện bình thường nếu phía bên kia thực hiện nghĩa vụ của
mình.
Bồi thường thiệt hại phải tuân thủ theo nguyên tắc: thiệt hại phải được bồi
thường đầy đủ. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở hai khía cạnh:

Trong thực tiễn hoạt động thương mại, huỷ hợp đồng là biện pháp chế tài được
áp dụng khi việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng không còn ý
nghĩa.Theo pháp luật Việt Nam,( điều 312 luật Thương mại 2005) thì chế tài huỷ hợp
đồng được áp dụng trong trường hợp xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả
thuận là điều kiện để huỷ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp
đồng.Theo điều 7.3.1 của PICC quy định: Mỗi bên có thể chám dứt hợp đồng khi bên
kia không thực hiện nghĩa vụ của mình và nghĩa vụ ấy là một nghĩa vụ quan trọng
( vi phạm nghiêm trọng).
Khi áp dụng chế tài huỷ hợp đồng pháp luật (điều 315 luật thương mại 2005)
quy định bên huỷ hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết về việc huỷ hợp đồng,
nếu không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên huỷ hợp đồng phải
bồi thường thiệt hại nếu có.Trong trường hợp chưa kịp thông báo huỷ hợp đồng cho
bên vi phạm nhưng bên vi phạm đã thực hiện nghĩa vụ thì bên vi phạm mất quyền
huỷ hợp đồng.Ví dụ, khi người mua chưa kịp tuyên bố huỷ hợp đồng do ngưòi bán vi
phạm nghĩa vụ giao hàng nhưng người bán đã giao hàng thì lúc đó người mua sẽ mất
quyền huỷ bỏ hợp đồng.
Việc huỷ hợp đồng sẽ đã tới một số hậu quả pháp lý.Quy định của pháp luật Việt
Nam (điều 314 luật Thương mại 2005) về vấn đề này tương tự quy đinhj của pháp
luật quốc tế mà cụ thể là quy định của công ước Viên 1980 (điều 81).Theo đó việc
Sinh viên: Trần Sỹ Quảng Lớp: Luật Kinh doanh - K45
24
Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel : 0918.775.368
huỷ hợp đồng giải phóng các bên khỏi nghĩa vụ của mình, trừ nghĩa vụ sau khi huỷ
hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Khi hợp đồng bị huỷ, bên nào đã thực hiện toàn bộ hay một phần nghĩa vụ hợp
đồng có thể đồi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình. Đồng thời
bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bòi thường thiệt hại theo quy định.
V.TRANH CHẤP VÀ VIỆC GIẢ QUYẾT TRANH CHẤP
Tranh chấp trong mua bán hàng hoá quốc tế là tranh chấp phát sinh khi một
trong các bên không thực hiên hay thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.Giải


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status