Một vài nét về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTH ngoài hợp đồng) - Pdf 28

BÀI LÀM
I. Một vài nét về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(BTTH ngoài hợp đồng)
Người có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì phải bị xử lý, trừng trị
nhằm ngăn ngừa và hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật. Cơ sở pháp lý của trách
nhiệm này quy định trong bộ luật dân sự về chế định BTTH ngoài hợp đồng. Thực
chất, chế định BTTH là quy tắc phân bổ lại thiệt hại trong xã hội giữa các chủ thể có
liên quan (tức là người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hay một bên thứ ba nào khác).
Quy định này còn có chức năng ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật, có thể gọi là
chức năng phòng ngừa. Chức năng này nhằm làm cho các tổ chức, cá nhân trong xã
hội ý thức được rằng, nếu họ gây thiệt hại cho chủ thể khác, không những họ không
được khuyến khích mà còn phải gánh chịu hậu quả bất lợi, thì họ sẽ phải có ý thức
kiềm chế hành vi gây thiệt hại. Như vậy, chế định BTTH ngoài hợp đồng góp phần
nâng cao tính trách nhiệm ứng xử của mỗi chủ thể.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt
hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Trách nhiệm dân sự nói
chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng mang đặc tính của trách nhiệm
dân sự. Đó là trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục tình trạng tài sản của người bị thiệt
hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.

1, Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH:
Nguyên tắc pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật nước ta là có hành vi
gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. BLDS không quy định cụ các
điều kiện làm phát sinh trách nhiệm. Xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc
của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm BTTH phát sinh khi có
các điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm BTTH bởi mục
đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng tài sản cho người bị hại, do
đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường cho dù có đầy đủ các điều
kiện khác. Khoản 1, Điều 307 bộ luật dân sự 2005 quy định:“Trách nhiệm BTTH bao

trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có ý nghĩa quan trọng vì: trách nhiệm BTTH chỉ
phát sinh khi thiệt hại là hậu quả (có sau), hành vi trái pháp luật là nguyên nhân (có
trước); khi nhiều người gây thiệt hại cho một người hoặc khi người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại đều có lỗi thì xác định mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa trong việc
xác định mức bồi thường.
2, Nguyên tắc BTTH:
Nguyên tắc BTTH được thực hiện theo nguyên tắc: bồi thường “toàn bộ” và
“kịp thời”. “Toàn bộ” có nghĩa là không ai được lợi từ việc bị thiệt hại và không ai
phải bồi thường vượt quá lần thiệt hại mà mình gây ra; nguyên tắc này đòi hỏi cho
các chủ thể cần có biện pháp phòng ngừa hợp lý, tránh tình trạng tạo dựng ra những
tình huống gây thiệt hại để kiếm lời. Bồi thường kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm
khắc phục tình trạng của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ khắc phục tình trạng
tài sản bị thiệt hại. Việc bồi thường kịp thời có ý nghĩa to lớn đối với nạn nhân trong
việc cứu chữa, hạn chế thiệt hại, bởi các chi phí cho việc cứu chữa bệnh nhân trong
điều kiện này nhiều khi vượt quá khả năng của nạn nhân.
II. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
(NLCTNBTTH) của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện hành
NLCTNBTTH của cá nhân được quy định tại Điều 606 BLDS, xác định
trách nhiệm của cá nhân gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị
thiệt hại theo các mức độ năng lực hành vi dân sự khác nhau. Căn cứ vào những điều
kiện về độ tuổi và sự phát triển của trí tuệ, nhận thức của cá nhân để có cơ sở xác
định trách nhiệm của cá nhân khi gây thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi
thường được thực hiện với những mức độ nào.
2
1, Trách nhiệm BTTH của người đã thành niên, có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ
Theo các quy định tại các điều từ 17 đến điều 21 BLDS, quy định mức độ
năng lực hành vi dân sự của cá nhân gồm các bậc người thành niên, người chưa
thành niên và năng lực hành vi của họ được quy định rất cụ thể. Theo đó “Người từ
đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành

được coi là bị hạn chế, khoản 1 Điều 23 BLDS quy định: “người nghiện ma túy,
nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra
quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Người hạn chế
năng lực hành vi dân sự không được tham gia một số quan hệ pháp luật dân sự, ví dụ
giao dịch liên quan đến tài sản của người đó.
3
Nhưng vấn đề đặt ra là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng của cá nhân bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại như thế nào? Liệu họ có được loại
trừ hoặc giảm trừ trách nhiệm dân sự khi họ có hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại
cho người khác hay không? Theo như quy định tại khoản 1 Điều 23 nêu trên thì
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng bị
nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình.
Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự trên cơ sở yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, của cơ quan hoặc tổ
chức hữu quan. Mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của những người này phải
có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật được Tòa án chỉ định. Quyết định
trên nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự khi họ tham gia vào quan hệ giao dịch
dân sự mà có liên quan đến tài sản nhưng không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm
dân sự khi họ có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Bởi vì, khi tham gia giao dịch
dân sự thì chủ thể tự mình tham gia theo ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt và có
nghĩa vụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản của mình. Nếu
người đó được xác định là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác theo
một bản án tuyên bố người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có hiệu lực pháp
luật thì có thể không làm chủ được hành vi của mình khi tham gia vào những giao
dịch dân sự liên quan đến tài sản của người đó. Nhưng người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự do các nguyên nhân được quy định tại Điều 23 Bộ luật dân sự, không
đồng thời là căn cứ miễn trừ trách nhiệm BTTH cho người đó, khi có hành vi gây
thiệt hại cho người khác. Vì người đó là người trưởng thành, bởi vậy về nguyên tắc
vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình. Tại Điều 606 không có quy

có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự vì họ
chưa đủ lý trí để nhận biết những hành vi của mình và hậu quả của những hành vi đó.
Mọi giao dịch của họ đều phải được người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện
hoặc đồng ý. Như vậy cá nhân không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho
người khác thì cha mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách là bị
đơn dân sự trước Tòa án.
- Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi
dân sự một phần (không đầy đủ). Những người thuộc lứa tuổi này khả năng nhận
thức của họ đang dần hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nhưng trong một giới hạn nhất định do
pháp luật dân sự quy định. Đó là những giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh
hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, những giao dịch khác khi họ xác lập,
thực hiện phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý hoặc pháp luật có quy định
khác.
Tuy nhiên, có thể thấy một điều họ đều thuộc nhóm người chưa thành niên
dưới 15 tuổi. Người con trong độ tuổi này gây thiệt hại không có trách nhiệm phải
bồi thường, mà trách nhiệm bồi thường thuộc về cha, mẹ của người đó. Trách nhiệm
của cha, mẹ của người dưới 15 tuổi phải BTTH do con chưa thành niên gây ra là
trách nhiệm pháp lý, không cần điều kiện lỗi. Ở đây, không được hiểu rằng: cha, mẹ
của người chưa thành niên dưới 15 tuổi phải BTTH do người con ở độ tuổi này gây
ra là căn cứ vào yếu tố lỗi của cha, mẹ do đã không quản lý, giám sát con mình mà
để họ gây ra thiệt hại thì cha mẹ phải bồi thường. Hiểu như vậy là không đúng bản
chất của pháp luật và là sự suy đoán. Trách nhiệm BTTH của cha, mẹ của người
dưới 15 tuổi là một loại trách nhiệm pháp lý, không cần điều kiện lỗi của cha, mẹ
trong việc giám sát, quản lý hành vi của con mình. Quy định này có ý nghĩa không
những về mặt lý luận, mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn, nhằm bảo vệ những
quyền, lợi ích hợp pháp của người gây ra thiệt hại. Trong trường hợp cha, mẹ không
có đủ tài sản để BTTH do con dưới 15 tuổi gây ra, mà con có tài sản riêng thì lấy tài
sản của con để bồi thường phần còn thiếu.
Việc lấy tài sản của người con để bồi thường phần còn thiếu không thể hiểu

Như vậy, từ những phân tích trên, chúng ta nhận thấy cơ sở trách nhiệm
pháp lý luôn thuộc về cha, mẹ kể cả trong trường hợp con dưới 15 tuổi trực tiếp gây
thiệt hại mà không có tài sản riêng để cha, mẹ có thể dùng vào việc BTTH do người
con đó gây ra, mà trách nhiệm luôn thuộc về cha, mẹ của người con dưới 15 tuổi gây
thiệt hại cho dù cha, mẹ của người đó có hoặc không có đủ tài sản để BTTH do con
dưới 15 tuổi gây ra.
3.1.1.2, Đối với trường hợp người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi gây thiệt hại
Tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không
đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
mình”.
Như vậy, theo như quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 nêu trên thì cá
nhân từ đủ 15 tuổi tới dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm tự BTTH
bằng tài sản riêng của mình, nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của họ. Sở dĩ Điều 606 quy định như vậy cũng là
phù hợp với tinh thần Điều 20 Bộ luật Dân sự 2005. Luật quy định cá nhân từ đủ 15
tuổi tới dưới 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ nhưng khả năng nhận
thức của họ đã phát triển cho nên ngoài các giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày, họ còn có thể tự mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
6
sự nếu có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi tài sản riêng
đó.
Tuy nhiên nếu người đó có những tài sản có giá trị lớn và đặc biệt như nhà ở,
quyền sử dụng đất thì sự định đoạt các tài sản này vẫn còn có những người đại diện
theo pháp luật của họ đồng ý. Tại Điều 606 Bộ luật dân sự 2005 quy định độ tuổi là
đủ 15 tuổi trở lên nếu có hành vi gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm BTTH cho
người đó là căn cứ vào điều kiện thực tế xã hội. Bởi vì những người trong độ tuổi
này nhận thức của họ tương đối trưởng thành và đã có khả năng lao động tao ra thu
nhập. Theo quy định của bộ luật lao động Việt Nam được sửa đổi bổ sung năm 2006

cha mẹ thay cho con gây thiệt hại trong trường hợp con không có tài sản hoặc không
đủ tài sản để bồi thường. Nghĩa vụ này của cha mẹ được hiểu là nghĩa vụ bổ sung.
3.1.2. Người giám hộ có trách nhiệm BTTH
Khoản 3 Điều 606 bộ luật dân sự 2005 quy định: “Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám
7
hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người giám hộ
không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có
lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.
Khoản 1 Điều 58 BLDS quy định: “Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức được
pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự”.
Việc quy định chế định giám hộ là hình thức bảo vệ pháp luật cho người chưa
thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự. Người được giám hộ theo quy định
tại khoản 2 Điều 58 bao gồm: “a) Người chưa thành niên không còn cha mẹ, không
xác định được cha, mẹ hoặc cha mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều
kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha mẹ có yêu cầu; b)
Người mất năng lực hành vi dân sự”. Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLDS thì:
“Người chưa đủ mười lăm tuổi được quy định tại điểm a khoản 2 Điều này và người
được quy định tại điểm b khoản 2 Điều này phải có người giám hộ”.
Theo những quy định trên, người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác,
thì người giám hộ dùng tài sản của người được giám hộ để BTTH. Trong trường hợp
người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường, thì người giám hộ phải BTTH bằng tài sản của mình nếu người giám hộ có
lỗi trong khi thực hiện việc giám hộ. Địa vị pháp lí của người giám hộ hoàn toàn
khác so với địa vị pháp lí của người là cha, mẹ của người chưa thành niên khác.
Người giám hộ thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải gánh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status