Nâng cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường Cao đẳng sư phạm qua việc giảng dạy học phần Thế giới quan và phương pháp luận triết học của Chủ nghĩa Mác - Lênin - Pdf 28

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
NGUYỄN NGỌC ÁNH
GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội – 2014

NGUYỄN NGỌC ÁNH LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC



NGUYỄN NGỌC ÁNH LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS Phạm Hồng
Thái, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy
giáo phản biện đã góp nhiều ý kiến quý báu để luận văn này của tôi được
hoàn thiện hơn, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Triết
học và Ban lãnh đạo trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học
quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này theo
đúng kế hoạch. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo và các anh
chị em đồng nghiệp trong Khoa Lý luận chính trị, Học viện Tài chính đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, trao đổi, góp ý những ý kiến bổ ích để
bản nội dung của luận văn này chặt chẽ và hoàn thiện hơn.


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC THỊ HIẾU THẨM MỸ
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐẠI
HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI HIỆN NAY 53
2.1. Thực trạng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 53
2.1.1. Thành tựu của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 53
2.1.2. Hạn chế của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay 64
2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
hiện nay 78
2.2.1. Yêu cầu thực tiễn về tăng cường giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội hiện nay 78
2.2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội hiện nay 83
Kết luận Chương 2 93
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97

và đoàn thể thanh niên cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt
động và sinh hoạt hằng ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn
2

nắn, sửa chữa". Về bản thân người thanh niên, Người căn dặn: "Thanh niên
càng phải xung phong hăng hái thực hiện khẩu hiệu "Đâu cần thanh niên có,
đâu khó có thanh niên".
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế
thị trường như hiện nay, sự du nhập ngày một gia tăng các sản phẩm văn hóa,
lối sống từ bên ngoài vào khiến cho nhu cầu, thị hiếu và lí tưởng của người
dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ càng trở nên phức tạp. Văn kiện Hội nghị lần thứ
V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng khi đề cập tới văn hóa
nghệ thuật đã cảnh báo: “xu hướng thương mại hóa, chiều theo những thị hiếu
thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ
thuật bị suy giảm”. “Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho
thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng” [21,46].
Trước thưc tế đó, vấn đề giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhất là giáo dục
nhu cầu và thị hiếu, lí tưởng thẩm mỹ ở nước ta càng trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Đặc biệt với sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
tương lai sẽ là những đội ngũ tuyên truyền đường lối, chính sách văn hóa, xã
hội cơ bản cho Đảng, Nhà nước, góp phần củng cố và làm giàu mỹ quan cho
dân tộc. Vì thế, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội có vị trí và ý nghĩa
đặc biệt quan trọng.
Như vậy, có thể nói, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên là một
vấn đề hết sức thời sự, cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc trên các
bình diện lý luận và thực tiễn nhằm hướng tới xây dựng quan điểm thẩm mỹ
đúng đắn cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nói riêng trong điều
kiện hiện nay. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giáo

nghệ thuật và sự tự sản sinh ra nhân cách văn hóa. Lần đầu tiên trong lịch sử
4

phát triển của mỹ học, Hegel đã coi nghệ thuật là sản phẩm của quá trình vận
động của tinh thần tuyệt đối và đến lượt mình, nghệ thuật trở thành chiếc chìa
khóa mở ra các vấn đề lớn lao của con người.
Mỹ học của các nhà dân chủ cách mạng Nga đã quan tâm sâu sắc đến
các vấn đề giáo dục thẩm mỹ. Khi coi cái đẹp là cuộc sống, Tsecnưsepxki đưa
ra quan điểm cho rằng nghệ thuật làm cho con người yêu cuộc sống hơn.
Trong các tư tưởng về mỹ học của mình, Mác, Ăngghen đã đề cập sâu
sắc đến vai trò của nghệ thuật đối với cuộc đấu tranh của nhân loại vì cái
đúng, cái tốt, cái đẹp. Mác - Ăngghen đã đưa ra những quan điểm cơ bản nhất
về văn hóa thẩm mỹ trong xã hội tương lai. Các ông đặc biệt nêu lên vai trò
của các quan điểm thẩm mỹ trong việc hình thành con người mới, thế giới
quan mới và cá tính con người.
Các nhà mỹ học Xô viết và Việt Nam đã đề cập nhiều về giáo dục thẩm
mỹ. Các bộ giáo trình mỹ học của Nhêđôsivin, Xcacherơsicốp, Lukin,
Ôpxiannhicôp đều có chương đưa ra các vấn đề liên quan đến nghệ thuật
thẩm mỹ và vai trò của nó đối với giáo dục thẩm mỹ.
Ở Việt Nam, giáo dục thẩm mỹ có thể coi là mảnh đất thu hút khá
nhiều tâm huyết của các nhà mỹ học, triết học, văn học cũng như nghệ thuật
học. Một trong số đó có thể kể đến các công trình: Lê Anh Trà đã có cuốn
Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới, Đỗ Huy với Giáo dục thẩm
mỹ - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Đỗ Văn Khang với Nghệ thuật học.
Ngoài ra, các giáo trình mỹ học của Hoài Lam, Lê Ngọc Trà, Vũ Minh Tâm,
Huỳnh Như Phương…đều có chương viết về giáo dục thẩm mỹ. Các nghiên
cứu này đều đề cao giáo dục thẩm mỹ trong vai trò thiết lập những lý tưởng
thẩm mỹ cho con người mới XHCN. “Chúng ta đều biết giáo dục thẩm mỹ là
một bộ phận, một hình thức của hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nó bao
gồm một nội dung rộng lớn: giáo dục sự hình thành những khả năng và thị


điểm của thị hiếu thẩm mỹ như tính vô tư, không mục đích, không khái niệm
và ở một mức độ nhất định, ông cũng đề cập đến vai trò của các phán đoán thị
hiếu trong đánh giá và sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là trong đánh giá cái đẹp.
Tuy vậy, I.Kant đã không giải quyết được mối quan hệ giữa tính đặc thù và
tính phổ biến của thị hiếu thẩm mỹ.
Ở Liên Xô, các bộ giáo trình mỹ học của V.Xcachersiccốp, I.Lukin,
M.Ôspxianhicốp và tập thể các nhà mỹ học đều có phần bàn về thị hiếu thẩm
mỹ. Riêng V.Raziumnưi đã có một cuốn sách ngắn là Bàn về thị hiếu nghệ
thuật tốt thể hiện rõ quan điểm của tác giả về sự khác biệt giữa các thị hiếu
thẩm mỹ tầm thường, thiếu lành mạnh và các thị hiếu thẩm mỹ tốt, các thị
hiếu thẩm mỹ lành mạnh.
Ở Việt Nam, thị hiếu thẩm mỹ cũng được các nhà nghiên cứu mỹ học,
văn học và nghệ thuật học đặc biệt quan tâm. Tiêu biểu trong đó có tác phẩm
của hai tác giả hàng đầu trong lĩnh vực mỹ học hiện nay là PGS.TS Đỗ Văn
Khang và GS. Đỗ Huy với các tác phẩm viết chung Mỹ học Mác – Lênin, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985; Giáo trình mỹ học cơ sở,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2011 và các tác phẩm khác như Giáo trình mỹ học đại
cương của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004, Mỹ học đại cương của Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh, Huỳnh Như
Phương. Các công trình này nhìn chung đã lột tả được bản chất của giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ và đều coi thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng cấu
thành năng lực thẩm mỹ của con người.
Ngoài các công trình nêu trên, một số nghiên cứu khác như: Nâng cao
thị hiếu thẩm mỹ trong thưởng thức và đánh giá nghệ thuật, Văn hóa nghệ
thuật 9/1999, 7-10, luận án Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống
thẩm mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 2000 của
tác giả Nguyễn Chương Nhiếp và các bài viết được in trong cuốn Thỏa mãn
7


trong hệ thống giáo dục hiện nay, góp phần tích cực trong việc hình thành
nhân cách, nâng cao khiếu thẩm mỹ cho con người.
Nhóm các công trình nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ trong vai trò giáo
dục thế hệ trẻ như: Luận án Văn hóa thẩm mỹ và việc xây dựng lối sống cho
thanh niên đô thị của nước ta hiện nay của Hồ Thị Tuyết Dung, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Bàn thêm về nội dung và hình thức
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên hiện nay, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5(40), 2010 của hai tác giả Lê Hữu Ái -
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng và Đinh Đức Hiền - Sở Nội vụ
thành phố Đà Nẵng; đề tài Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh qua vẻ đẹp
của tranh dân gian Đông Hồ trên trang web . Các tác giả
đều cho thấy giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là nội dung quan trọng của chiến lược
giáo dục hiện nay. Các nghiên cứu chỉ ra những đặc trưng cơ bản trong việc
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, chỉ ra các nội dung và hình thức của giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên hiện nay, tuy nhiên đối tượng học sinh,
sinh viên các nghiên cứu này nhắm tới đều chung chung, chưa cụ thể.
Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Qua nghiên cứu và khảo sát các công trình nghiên cứu liên quan đến đề
tài, tác giả của luận văn xin đưa ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, có thể thấy các tác giả nói trên đã nghiên cứu giáo dục thẩm
mỹ và thị hiếu thẩm mỹ trên những bình diện khác nhau từ lý luận đến thực
tiễn, song do nhiều nguyên nhân khác nhau, các công trình này đều nghiên
cứu về thị hiếu thẩm mỹ ở tầm khái quát cao. Vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ cho từng đối tượng cụ thể, trong đó có sinh viên còn nhiều nội dung cần
được nghiên cứu cụ thể hơn.
9

Thứ hai, có thể thấy, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập tới vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, nhất là giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
cho đối tượng thanh thiếu niên, sinh viên. Các tác giả đã tạo ra một sơ sở dữ

Thứ ba, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ hoạt động giáo dục thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan đến hoạt động giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và những nguyên lý mỹ học Mác – Lênin.
Luận văn đã vận dụng các nghị quyết của Đảng, những tác phẩm của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta, đồng thời có tham khảo các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước để thực hiện luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng những phương
pháp nghiên cứu chung như: phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phân
11

tích và tổng hợp, hệ thống hóa và so sánh, phương pháp điều tra xã hội
học…Và ở một mức độ nhất định, luận văn có sử dụng phương pháp hệ thống
– cấu trúc trong nghiên cứu giáo dục thẩm mỹ như một thành tố của toàn bộ
hệ thống giáo dục quốc dân.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Bằng các thành tựu của khoa học mỹ học, luận văn vận dụng vai trò

Thị hiếu thẩm mỹ là một đối tượng nghiên cứu cụ thể của khoa học mỹ
học. Nó không chỉ biểu hiện trình độ giáo dục thẩm mỹ của xã hội mà còn thể
hiện quá trình tự phát triển của cá nhân. Nếu khái niệm thị hiếu chỉ sự thích
thú thông qua các giác quan của con người như thị giác, khứu giác, thính giác,
xúc giác, vị giác thì khái niệm thị hiếu thẩm mỹ gắn liền với cảm giác thông
qua hai giác quan thị giác và thính giác. “Năm 1647, trong luận văn của mình,
nhà tư tưởng Tây Ban Nha Gracian Moralès đã đồng nhất khái niệm thị hiếu
như khái niệm thị hiếu thẩm mỹ. Khi đó ông gọi thị hiếu gắn với các cảm giác
của tai và mắt là cảm giác gắn với cái đẹp và nghệ thuật. Cảm giác này khác
với cảm giác khi ăn, uống, tắm mát và ngửi hương thơm, nó thuộc về các cảm
giác tinh thần" (Trích theo: 84, 9).
Khi mỹ học trở thành một khoa học độc lập, nhà mỹ học
A.Baumgácten cũng đặc biệt chú ý đến đặc trưng cơ bản này của thị hiếu
thẩm mỹ so với các sở thích khác trong đời sống. A.Baumgácten đề xuất
Nguyên lý thích thú trong lĩnh vực mỹ học gắn liền với cảm giác về cái đẹp
thông qua các giác quan tai và mắt. Ông luận giải, thích thú thẩm mỹ là sự kết
hợp của các cảm giác tác động thụ động qua hai giác quan tai và mắt với quá
trình giải phóng lý trí. Theo đó, thị hiếu thẩm mỹ là sự thích thú của con
người về phương diện thẩm mỹ, gắn liền với tình cảm về cái đẹp, cái xấu, cái
bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và nghệ thuật.
13

Nhưng phải đến hai nhà mỹ học nổi tiếng I.Kant và G.Hegel, khái niệm
thị hiếu thẩm mỹ mới được luận bàn nhiều. Trong cuốn Phê phán năng lực
phán đoán, ngay từ những chương đầu của cuốn sách, I.Kant đã khẳng định
“Phán đoán thị hiếu là phán đoán thẩm mỹ”. Theo I.Kant, mỹ học là phê phán
năng lực phán đoán hay chính là khoa học nghiên cứu khả năng tự khám phá
ra các sở thích riêng của mình. Theo đó, thị hiếu thẩm mỹ là khả năng đưa ra
phán đoán của cá nhân về cái đẹp và cái cao cả. I.Kant gọi thị hiếu thẩm mỹ
về bản chất mang tính vô tư, thờ ơ với các quyền lợi về vật chất.

Paganini” [40, 20, 643].
Như vậy, có thể thấy, Thị hiếu thẩm mỹ là khái niệm chỉ sở thích của
con người trong lĩnh vực thẩm mỹ, bộc lộ năng lực lựa chọn, đánh giá của
con người bằng cảm xúc trước các hiện tượng thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ là
kết quả kết tinh ý kiến của xã hội và những nhận định riêng của mỗi cá nhân.
Hay nói khác đi, con người có một thước đo thẩm mỹ gắn liền với lịch sử
sáng tạo của nó, và thị hiếu thẩm mỹ là sản phẩm riêng của con người xã hội.
Tuy mỗi thị hiếu mang một màu sắc cá nhân riêng nhưng chúng đều được
kiểm nghiệm bằng các thước đo xã hội, từ đó người ta phân biệt được thị hiếu
tốt, thị hiếu xấu, thị hiếu lành mạnh, thị hiếu không lành mạnh.
Thị hiếu thẩm mỹ chỉ có ở con người, động vật không hề có thị hiếu
thẩm mỹ và mỗi thị hiếu cá nhân của con người đều gắn với thước đo thẩm
mỹ của một xã hội cụ thể. Minh chứng cho quan điểm này, trong Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác đã viết: “Súc vật chỉ sản xuất cái mà bản
thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, sản xuất một chiều; còn con người thì
sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất dưới sự thống trị của nhu cầu
vật chất trực tiếp; trong khi đó thì con người sản xuất ngay cả khi thoát khỏi
nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó thì mới sản xuất theo ý
nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất ra bản thân mình, còn
15

con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên; sản phẩm của súc vật trực tiếp
gắn liền với cơ thể vật chất của nó, còn con người thì độc lập một cách tự do
với sản phẩm của mình. Súc vật chỉ nhào nặn vật chất theo thước đo và nhu
cầu của giống loài nó còn con người thì có thể sản xuất theo thước đo của bất
cứ giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối
tượng; do đó con người cũng nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp” [10,
93-94]. Cũng gần quan điểm đó, trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã
hội cũng cho rằng: “Một con người xã hội nhất định (hoặc nói cho đúng hơn
một xã hội, một dân tộc một giai cấp nào đó) có chính là những thị hiếu và

dựng xã hội phát triển theo quy luật của cái đẹp. Vì vậy, việc phổ biến và giáo
dục thị hiếu thẩm mỹ là thực sự cần thiết.
Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là hệ thống những biện pháp, cách thức
nhằm rèn luyện và hoàn thiện thái độ, tình cảm và năng lực cảm thụ của con
người trước cuộc sống và nghệ thuật thông qua hai giác quan chủ yếu là
thính giác và thị giác.
Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ có vai trò quan trọng
trong việc hình thành lối sống văn hóa nói riêng và hoàn thiện nhân cách con
người nói chung theo chiều hướng tiến bộ, nhân văn và vận động theo quy
luật của cái đẹp. Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là sự xã hội hóa cá nhân về mặt
thẩm mỹ thông qua mối quan hệ thẩm mỹ của con người với thực tiễn cuộc
sống để phát triển con người một cách toàn diện, hài hòa.Về vấn đề này, nhà
mỹ học Xô Viết E.Iakốplép đã viết: “Thực chất của thị hiếu thẩm mỹ là sự
thống nhất hài hòa giữa nhận xét với xúc cảm. Điều đó làm cho nó trở thành
một hiện tượng xã hội chung, còn trong những điều kiện lịch sử nhất định –
thành một hiện tượng giai cấp, đồng thời vẫn giữ được tính cá nhân sâu sắc”
[80, 141].
17

Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành hệ thống giáo dục
thẩm mỹ giúp hoàn thiện quá trình xã hội hóa cá nhân nhằm phát triển con
người toàn diện. Mục tiêu trọng tâm giáo dục con người mà Đảng và nhân
dân ta hướng tới là xây dựng những con người có năng lực hiểu biết, đánh giá
và sáng tạo cái đẹp. Mục tiêu này có mối quan hệ gắn bó với mục tiêu phát
triển trí tuệ, đạo đức, thể chế thông qua lao động và các thiết chế văn hóa. Bản
chất của giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là hình thành một chủ thể thẩm mỹ có
năng lực thụ cảm nhạy bén và khả năng sáng tạo trong mọi hoạt động sống, là
phát triển một cách hài hòa các hoạt động cá nhân và xã hôi của con người.
Như vậy, để đạt được mục tiêu cao quý của giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
thị hiếu thẩm mỹ phải bao gồm trong đó giáo dục trong nhà trường và ngoài

việc quán triệt và làm tươi mới các tư tưởng mỹ học của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bằng cách giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là yêu
cầu cấp bách như xây dựng một căn nhà đủ khỏe khoắn và kiên cố trong mùa
mưa lũ. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn phải
nhằm vào cái hư hỏng mà đả phá, phải hướng về cái tốt đẹp mà xây dựng.
Đây là một "cuộc chiến đấu khổng lồ". Và cuối cùng, cái quyết định vẫn là
kiên trì xây dựng cho được xã hội văn hoá cao, văn hoá mới của xã hội chủ
nghĩa, trong đó có văn hoá thẩm mỹ. Đó là định hướng cơ bản của giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm mỹ học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những chỉ dẫn quý báu về giáo dục nói
chung và giáo dục thị hiếu thẩm mỹ nói riêng. Trong tư tưởng của Người, cái
đẹp là sự hài hòa giữa tinh thần và thể chất, đó là “con người có cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách
mạng” [56, 127]. Không phải ngẫu nhiên mỗi khi nói đến đạo đức, Hồ Chí
19

Minh luôn gắn nó với hình ảnh cái đẹp hay sử dụng các thước đo thẩm mỹ
làm tiêu chuẩn để bình giá.
Trong thời kì đổi mới, kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm mỹ học
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hình thành nhân
cách con người mới, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm giáo dục thẩm mỹ
trong đó giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng. Theo cố Tổng
bí thư Trường Chinh thì trong các hoạt động thẩm mỹ, con người luôn cần có
năng khiếu, có thị hiếu thẩm mỹ linh hoạt. Trong đó, năng khiếu chỉ là tiền đề
ban đầu và mỗi hoạt động thẩm mỹ đều cần liên tục được thử thách bởi các
thước đo xã hội. Ông cho rằng: “Muốn có tác phẩm đẹp phải có khiếu, có tài
năng, có thiên tài. Những người cộng sản không phủ nhận tài năng và thiên
tài, nhưng không quan niệm tài năng và thiên tài là những cái siêu hình, bẩm
sinh đã có. Sự cấu tạo của khối óc và truyền thống gia đình có phần ảnh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status