Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo - Pdf 28


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận án
Tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc biệt, thể hiện quyền lực của Nhà
nước nhằm mục đích xử lý những hành vi được cho là tội phạm, xâm hại đến lợi ích
của Nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong lĩnh vực này,
việc hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là điều khó có thể tránh
khỏi, thậm chí các quyền và lợi ích hợp pháp đó có thể bị xâm phạm một cách
nghiêm trọng nếu các cơ quan, người được Nhà nước giao thực hiện một số quyền tố
tụng không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần
và địa vị xã hội; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, theo
đó nghiêm cấm mọi hình thức bức cung, nhục hình. Công dân có quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản. Các quy định về
tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự tương đối đầy đủ
theo hướng bảo đảm quyền của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói
riêng.
Bên cạnh những quy định tiến bộ như đã nêu ở trên, một số quy định về quyền
của bị can, bị cáo trong BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
chưa đầy đủ, chặt chẽ; chưa phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và một số
nước có nền tư pháp hình sự tiến bộ trên thế giới; chế độ tạm giam, tạm giữ, các quy
định về việc thay đổi, áp dụng các biện pháp ngăn chặn; các quy định về cơ quan
THTT, người THTT, người tham gia tố tụng; vấn đề thu thập chứng cứ cũng còn
nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền và cơ chế thực hiện quyền của bị can,
bị cáo. Mặt khác, ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng người tiến hành tố tụng
lợi dụng sự thiếu chặt chẽ của pháp luật TTHS, đã lạm dụng quyền lực được giao
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo; công tác điều tra, truy
tố, xét xử của các cơ quan THTT vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập; cụ thể: một
số địa phương chưa tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa tham gia tố tụng làm

Pháp luật TTHS cần phải được quy định chặt chẽ hơn theo hướng mở rộng các
quyền của bị can, bị cáo; đồng thời phải có các quy định nhằm bảo đảm việc thực
hiện quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng; hạn chế đến mức thấp
nhất việc lạm dụng quyền lực của người tiến hành tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền
của bị can, bị cáo nói riêng và của công dân nói chung.
Theo nghiên cứu của nghiên cứu sinh, đến nay mới chỉ có các nghiên cứu ở
cấp độ Thạc sĩ, Tiến sĩ, đề tài khoa học cấp Bộ, các bài nghiên cứu trên các tạp chí
chuyên ngành của các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn về quyền
con người, quyền con người trong TTHS nói chung, hoặc chỉ đề cập đến một khía
cạnh hẹp của vấn đề mà chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện, chuyên sâu về
quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Bởi các lý do trên, việc nghiên cứu đề tài Hoàn thiện quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo là hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài trên làm luận án Tiến sĩ của
mình. Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đáp ứng với yêu cầu về chiến lược cải cách
tư pháp của Đảng, phù hợp với định hướng sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 của
Nhà nước, phù hợp với các quy định trong Hiến pháp năm 2013 cũng như yêu cầu
hội nhập quốc tế.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng quyền của bị can, bị cáo
được quy định trong BLTTHS Việt Nam, luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo. Luận án cũng nghiên cứu và đưa
ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTHS về bảo đảm
quyền của bị can, bị cáo.

3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:
Để đạt được những mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:

quy định của BLTTHS; nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật của các cơ quan
THTT trong việc thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Luận án cũng nghiên cứu
những quy định về quyền của bị can, bị cáo trước và sau khi có BLTTHS năm 1988;
nghiên cứu quy định về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và một số
nước trên thế giới để tìm ra những điểm tiến bộ, phù hợp với truyền thống pháp luật
của Việt Nam. Luận án không nghiên cứu các quyền cơ bản của công dân; không

4
nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân
dân, Viện kiểm sát quân sự và Tòa án quân sự.
Về không gian, thời gian: Việc nghiên cứu thực tiễn thi hành những quy định
của BLTTHS được nghiên cứu trên phạm vi cả nước, trong khoảng thời gian từ khi
BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến hết năm 2014. Luận án sử dụng các báo cáo
tổng kết, báo cáo chuyên đề của ngành Toà án, Viện kiểm sát, Liên đoàn Luật sư
Việt Nam, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương; số liệu thống kê của TAND tối
cao, VKSND tối cao và một số tỉnh, thành phố; những nguồn thông tin về thực tiễn
tố tụng trong các báo cáo chuyên đề của các ngành Toà án, Viện kiểm sát và các
nguồn thông tin khác.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm, chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, chiến lược
xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2020.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm có: phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và so sánh, điều tra xã hội học,
khảo sát thực tiễn, tổ chức hội thảo khoa học để làm rõ các nội dung nghiên cứu.
Trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và so sánh
được sử dụng chủ yếu trong các nội dung nghiên cứu về tổng quan về tình hình
nghiên cứu luận án và những vấn đề lý luận về quyền của bị can, bị cáo (Chương 1,
Chương 2); phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn, tổ chức

Chương 4. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam 6
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Qua nghiên cứu các công trình, đề tài, bài nghiên cứu trong nước về quyền
của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam đã được công bố mà nghiên cứu sinh được
tiếp cận cho thấy các tác giả chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu khái niệm về quyền con
người, nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của những người tham gia tố tụng
trong hoạt động tư pháp nói chung (Nguyễn Quang Hiền, Đinh Thế Hưng). Một số
nhà khoa học tập trung nghiên cứu về quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong TTHS (PGS.TS. Phạm Hồng Hải, PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc, TS. Lại
Văn Trình…). Nội dung các công trình này ngoài việc đề cập đến quyền con người
trong TTHS nói chung còn đề cập tương đối sâu về vấn đề bảo đảm quyền của bị
can, bị cáo trong TTHS. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu quá rộng, chủ yếu xuất
phát từ việc phân tích quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng mà chưa
nghiên cứu sâu nội dung và cơ chế bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS.
Có công trình lại tập trung nghiên cứu từng giai đoạn tố tụng, nghiên cứu các quy
định của TTHS trong từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự
(GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí).
Dưới giác độ người bào chữa, một số tác giả nghiên cứu các quy định về
quyền của người bào chữa, các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa
nhằm mục đích bảo đảm các quyền con người của các chủ thể tham gia tố tụng nói
chung, quyền của bị can, bị cáo nói riêng (PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Nguyễn Quang

Về lý luận, luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ: Khái niệm bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự; khái niệm quyền của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự; khái
niệm hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo;
đặc điểm về quyền của bị can, bị cáo trong TTHS. Nghiên cứu các quy định về
quyền của bị can, bị cáo trong lịch sử TTHS Việt Nam; nghiên cứu pháp luật TTHS
quốc tế và pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới về quyền của bị can, bị cáo
và cơ chế đảm bảo thực hiện. Từ đó tìm ra những điểm hạn chế của pháp luật TTHS
Việt Nam, những điểm tiến bộ của pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số
nước trên thế giới tương đồng, phù hợp với truyền thống pháp luật Việt Nam để đề
xuất hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo cho phù hợp với pháp luật
quốc tế.
Về thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu gồm: Nghiên cứu thực trạng
quy định về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS năm 2003; thực trạng thực hiện
quyền của bị can, bị cáo để tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định và thực
trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo. Đề tài luận án cũng cần nghiên cứu, làm rõ
thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật TTHS trong việc bảo đảm quyền
của bị can, bị cáo; tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân những hạn chế,
vướng mắc đó để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện các quy định về quyền và
bảo đảm thực hiện các quyền được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật: Từ kết quả nghiên cứu
lý luận và thực tiễn, luận án phải đưa ra những đề xuất sửa đổi, bổ sung toàn diện
các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS; đồng thời, để bảo đảm việc
thực hiện quyền của bị can, bị cáo trong thực tiễn, luận án cần đề xuất hoàn thiện
một số quy định về bảo đảm thực hiện quyền của bị can bị cáo trong Bộ luật tố tụng
hình sự.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
2.1. Khái niệm, đặc điểm quyền của bị can, bị cáo và khái niệm hoàn
thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo

chế và nhân đạo của Nhà nước pháp quyền và tự do của con người.
Bốn là: Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị
can, bị cáo phải bảo đảm được sự kết hợp hài hòa các giá trị pháp luật truyền thống
của dân tộc với những thành tựu tiên tiến của khoa học pháp lý trên thế giới.
Năm là:Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị
can, bị cáo phải được tiến hành một cách đồng bộ với việc sửa đổi, bổ sung toàn
diện các quy định về quyền cũng như các quy định về các biện pháp bảo đảm thực
hiện quyền của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Trước yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu để làm rõ các luận điểm khoa học về
những nguyên tắc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can,
bị cáo có ý nghĩa nhận thức khoa học và ý nghĩa thực tiễn quan trọng trên ba bình
diện chủ yếu dưới đây:

9
Về mặt lập pháp: Nghị quyết 08-NQ/TW được ban hành từ năm 2002 đến nay
đã được 13 năm; Nghị quyết 48-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW ban hành từ năm
2005 đến nay đã được 10 năm, trong đó có rất nhiều nội dung yêu cầu cải cách tư
pháp liên quan đến mở rộng quyền và bảo đảm thực hiện quyền con người nói
chung, quyền của bị can, bị cáo trong TTHS nói riêng như vấn đề nâng cao chất
lượng tranh tụng, mở rộng quyền và bảo đảm quyền bào chữa, cải cách thủ tục xét
xử, cơ chế giám sát trong TTHS Tuy nhiên, cho đến nay có rất nhiều những vướng
mắc, bất cập liên quan đến nội dung này trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa được
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Về mặt thực tiễn: xuất phát từ thực trạng quy định của pháp luật TTHS hiện
hành về quyền và thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo cho thấy còn có
nhiều bất cập, chưa đầy đủ so với quy định của pháp luật TTHS quốc tế, chưa đáp
ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trong khi đó, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền tại các nước trên thế giới
cho phép khẳng định một cách khách quan rằng nếu như trong TTHS các quyền con

2. Khái niệm bị cáo: Bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội, đã bị buộc tội bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố của Viện kiểm
sát và được Tòa án quyết định đưa ra xét xử; phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật
tố tụng hình sự và có nguy cơ bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
3. Khái niệm quyền của bị can, bị cáo: Quyền của bị can, bị cáo là những bảo
đảm pháp lý được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự cho phép người đã bị khởi
tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử có thể sử dụng trong
quá trình tham gia tố tụng hình sự.
4. Khái niệm hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo: Hoàn thiện
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo là tổng hợp các
biện pháp đồng bộ nhằm đổi mới các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
quyền của bị can, bị cáo cho phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước về cải
cách tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được thừa nhận chung
của pháp luật quốc tế và truyền thống pháp luật của Việt Nam trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của sự điều chỉnh về mặt
pháp luật, đảm bảo cho việc áp dụng thống nhất và chính xác các quy định đó trong
thực tiễn.
Các khái niệm này là cơ sở lý luận quan trọng cho việc kiến nghị hoàn thiện
các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong quá trình nghiên cứu luận án.

Chương 3
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
3.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
quyền của bị can, bị cáo
3.1.1. Khái quát các quy định về quyền của bị can, bị cáo trước khi Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực
Nhìn lại lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam có thể thấy: ngay từ những ngày
đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 đến nay, qua những thăng

quyền, nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10 BLTTHS);
Được xét xử công khai, trừ trường hợp khác do BLTTHS quy định (Điều 18
BLTTHS); Được quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa
ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án (Điều 19 BLTTHS); Được sử dụng
tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình (Điều 24 BLTTHS); Được bồi thường thiệt
hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra (Điều 30
BLTTHS). Đối với bị cáo còn có thêm các quyền: Quyền được xem biên bản phiên
tòa, được yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận
(Điều 200 BLTTHS); Quyền được nhận xét, hỏi thêm về những vấn đề có liên quan
đến tài liệu, kết luận giám định của vụ án được công bố tại phiên tòa (Điều 214,
Điều 215 BLTTHS)…
3.1.3. Quy định về quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế và một số
nước trên thế giới – so sánh với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Vấn đề quyền của bị can, bị cáo trong pháp luật quốc tế chủ yếu được đề cập
đến trong hai văn bản pháp lý quan trọng, đó là: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền
(UDHR – The Universal Declaration of Human Right) được Đại hội đồng Liên hiệp
quốc thông qua ngày 10/12/1948 tại Palais de Chailot, Paris (Pháp) và Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR – International Convenant on Civil
and Political Rights) được Đại hội đồng liên hiệp quốc thông qua và để ngỏ cho các
quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXII) ngày
16/12/1966 và có hiệu lực từ ngày 23/3/1976; Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982.

12
Theo pháp luật quốc tế, các nước thành viên phải chịu trách nhiệm về việc
không tuân thủ nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm các quyền con người được công nhận
không chỉ trong các hiệp định nước đó tham gia mà cả các văn bản pháp lý khác trên
cơ sở của nguyên tắc Pacta Sunt Servanda. Như Tòa án liên Mỹ về nhân quyền giải
thích trong vụ Velasquez, Việc vi phạm những quyền mà theo Luật quốc tế bị quy là
hành động phạm pháp có thể quy trách nhiệm cho quốc gia mà thuật ngữ đó đề cập
tới. Việt Nam gia nhập Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 vào ngày

tiễn, điều tra xã hội học, tổ chức Hội thảo… luận án đã phần nào làm rõ thực trạng
thực hiện quyền của bị can, bị cáo ở Việt Nam trong 11 năm (từ năm 2004 đến hết
năm 2014) như: Thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa
và quyền được trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền được bồi thường oan sai

13
của bị can, bị cáo; thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên; thực trạng thực hiện quyền của bị can, bị cáo được giải quyết theo thủ tục rút
gọn và thực trạng thực hiện các quyền khác của bị can, bị cáo.
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền
của bị can, bị cáo
Qua phân tích thực trạng quy định và thực trạng thực hiện quyền của bị can,
bị cáo; luận án đã chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế, bất cập; trong đó có
hai nguyên nhân chính là nguyên nhân về mặt pháp luật và nguyên nhân về mặt áp
dụng pháp luật.
3.3.1. Nguyên nhân về mặt pháp luật
Qua nghiên cứu thực trạng quy định và thực trạng áp dụng BLTTHS năm
2003 cho thấy: nguyên nhân khách quan chủ yếu là do những hạn chế, bất cập của
các quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của bị can, bị cáo, thể hiện ở một số
nội dung sau:
Thứ nhất: Một số nguyên tắc quan trọng định hướng cho việc quy định quyền
của bị can, bị cáo như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc có lợi cho bị can, bị
cáo; nguyên tắc tranh tụng mặc dù được quy định rải rác trong một số Điều của
BLTTHS nhưng không được áp dụng triệt để trong thực tiễn vì chưa được ghi nhận
chính thức trong BLTTHS. Một số nguyên tắc đã được quy định nhưng chưa đầy đủ
hoặc quy định còn chung chung, mang nặng tính hình thức, dẫn đến việc hạn chế
quyền của bị can, bị cáo như nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án (Điều 10), nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình
sự (Điều 13), nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (Điều 17), nguyên tắc thực hành

quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam. Nghiên cứu nội
dung này cho chúng ta thấy những ưu điểm cũng như những hạn chế trong các quy
định của BLTTHS về quyền và bảo đảm quyền của bị can, bị cáo; những ưu điểm và
hạn chế của các cơ quan và người THTT trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; vai
trò của người bào chữa trong việc tham gia bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong
quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến quyền con người nói chung, quyền
của người tham gia tố tụng hình sự nói riêng và đặc biệt là quyền và bảo đảm quyền
của bị can, bị cáo trong quá trình tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, thông qua việc
nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật, tìm ra
những nguyên nhân của những hạn chế bất cập trong các quy định về quyền và bảo
đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo là căn cứ thuyết phục để chúng ta đưa ra
những đề xuất kiến nghị để hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành theo
hướng quy định triệt để các quyền của bị can, bị cáo và các biện pháp bảo đảm thực
hiện các quyền này. Mặt khác sẽ giúp cho những người tiến hành tố tụng nhận thức
đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc bảo đảm thực hiện quyền của bị can, bị cáo;
đồng thời là nguồn tài liệu để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo,
nắm được thực trạng quy định và áp dụng pháp luật để từ đó có chính sách phù hợp,
góp phần bảo đảm hơn nữa quyền của bị can, bị cáo trong quá trình tham gia tố tụng.

Chương 4
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA
BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
quyền của bị can, bị cáo
Thứ nhất: Việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 phải dựa trên những
quan điểm chỉ đạo của Đảng, phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể
là những định hướng trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08-
NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới,

50 BLTTHS như sau:
Điều 49. Bị can
1. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và được Viện kiểm sát phê chuẩn.
2. Bị can có quyền:
a) Có quyền im lặng, không khai báo những nội dung bất lợi cho mình; có
quyền không làm chứng chống lại mình;
b) Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
c) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
d) Trình bày lời khai, đề nghị ghi âm, ghi hình các buổi hỏi cung và các
buổi làm việc;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

16
e) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này;
g) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; tiếp cận, liên lạc với người
thân, người bào chữa sau khi bị bắt; có quyền tiếp xúc, gặp gỡ riêng và bí mật với
người bào chữa không giới hạn thời gian;
h) Được yêu cầu cung cấp đầy đủ tài liệu phục vụ cho việc bào chữa, được
nghiên cứu hoặc sao chụp toàn bộ hồ sơ vụ án;
i) Được nhờ người khác hoặc tự mình thu thập chứng cứ gỡ tội phục vụ
cho việc bào chữa; yêu cầu giám định;
k) Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều
tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các
quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
l) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
Điều 50. Bị cáo
2. Bị cáo có quyền:

theo trình tự Luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
2. Việc đánh giá chứng cứ trong suốt quá trình giải quyết vụ án phải theo
hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau:
Điều… Nguyên tắc tranh tụng (mới)
1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện
hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền tranh luận dân
chủ, bình đẳng;
2. Trong các giai đoạn tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và
những người được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải bảo đảm việc
tranh tụng bình đẳng, dân chủ giữa các bên nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ
án;
3. Phán quyết của Hội đồng xét xử phải dựa trên kết quả đánh giá chứng cứ
và tranh tụng công khai tại phiên tòa.
- Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án theo hướng:
“1. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trong phạm vi chức năng của
mình có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ; 2. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát. Phán quyết của Tòa án được thực hiện trên cơ sở sự thật được chứng minh tại
phiên tòa; 3. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh là
mình không có tội”.
- Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
(Điều 11) như sau:
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa; có quyền được chỉ định người bào chữa trong một số trường hợp theo
quy định của pháp luật.

18

việc giải quyết khiếu nại tố cáo loại này.
- Hoàn thiện các quy định về cơ chế giám sát của Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức thành viên trong tố tụng hình sự
- Hoàn thiện các quy định khác trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự
nhằm bảo đảm thực hiện quy ền của bị can, bị cáo (Điều 95, 110, 120, 158, 179, 200
Bộ luật tố tụng hình sự).
Tóm lại: Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo phải được
dựa trên những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền của các chủ thể này
trong thời gian qua, cũng như quan điểm của Đảng và yêu cầu cải cách tư pháp trong

19
thời gian tới. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo một mặt phải
bảo đảm các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự; mặt khác phải phù hợp với các
quy định trong Hiến pháp năm 2013 về quyền con người trong hoạt động tố tụng
hình sự.
Mục tiêu của việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo nhằm
bổ sung một số quyền của các chủ thể này chưa được ghi nhận trong TTHS, đồng
thời quy định biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quyền này trong thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử. Nội dung của việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can,
bị cáo một mặt phải bảo đảm tính kế thừa, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những yếu
tố hợp lý của pháp luật quốc tế và pháp luật TTHS một số nước trên thế giới phù
hợp với truyền thống pháp luật của Việt Nam.
Từ phương hướng hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo đã đặt
ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới một số nội dung trong Bộ luật
TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp về quyền con người nói chung và quyền của
bị can, bị cáo nói riêng.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo là một trong những nội
dung đồng thời là mục đích của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị

quyền con người nói chung và quyền con người trong TTHS nói riêng. Việc hoàn
thiện các quy định này cũng phải đặt trong mối quan hệ tổng thể với quá trình hoàn
thiện pháp luật TTHS, pháp luật hình sự và mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp nói
chung; bảo đảm tính kế thừa, tính hiện đại, tiếp thu những thành tựu tiến bộ của
khoa học pháp lý của các nước…
5. Việc hoàn thiện các quy định về quyền của bị can, bị cáo trong giai đoạn
hiện nay là cần thiết, cấp bách nhưng đòi hỏi phải có lộ trình, bước đi phù hợp để
tránh gây lên những xáo trộn không cần thiết, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm và hoạt động bình thường của các cơ quan THTT. Các quy
định về quyền của bị can, bị cáo không chỉ đơn thuần là các vấn đề tố tụng mà rộng
hơn nữa là bảo đảm quyền dân chủ, quan điểm lập pháp, trong chừng mực cần thiết
phải có những sửa đổi các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, đặc biệt là cơ quan xét xử.
6. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng được cơ sở lý luận về quyền của bị can, bị
cáo trong BLTTHS; đồng thời cũng làm rõ thực trạng quy định và thực hiện quyền
của các chủ thể này trong quá trình THTT, chỉ ra những nguyên nhân của những ưu
điểm, những hạn chế, bất cập, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của BLTTHS về quyền của bị can, bị cáo. Đặc biệt, kết quả
nghiên cứu của luận án đã xây dựng được nội dung cụ thể các vấn đề cần sửa đổi, bổ
sung và quy định mới về quyền của bị can, bị cáo trong BLTTHS Việt Nam hiện
hành.
Tuy nhiên, luận án mới chỉ đạt được những kết quả trên cơ sở khả năng
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn mà tác giả tổng kết được. Do đó kết
quả nghiên cứu của luận án còn có những hạn chế nhất định, nghiên cứu sinh kính
mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô và
đồng nghiệp về nội dung luận án để việc nghiên cứu đạt kết quả tốt hơn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status