Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của một số giống khoai lang trong vụ Đông 2013 tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên. - Pdf 29

1ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
ĐOÀN HUY QUANG Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA MỘT SỐ GIỐNG KHOAI LANG TRONG VỤ ĐÔNG 2013
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN” KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Trồng trọt
Khoa : Nông học
Khóa học : 2010 – 2014
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Viết Hưng
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, em đã nhận được sự
quan tâm của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân dịp này, em xin chân thành
cảm ơn ban Giám hiệu Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và tập thể
các thầy giáo, cô giáo Khoa Nông học; cùng nhiều cán bộ Trung tâm Thực
hành – Thực nghiệm trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều
kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài tốt nghiệp.
Em cũng chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn động viên
giúp đỡ em về tinh thần và vật chất trong quá trình học tập và thời gian
thực hiện luận văn tốt nghiệp cuối khóa học. Đặc biệt, em xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Nguyết Viết Hưng và cô giáo
ThS. Nguyễn Thị Mai Thảo, khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em vượt qua khó
khăn để hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Do trình độ và thời gian có hạn, bản khóa luận không tránh khỏi
những thiếu sót. Vậy em kính mong các thầy cô giáo cùng các bạn có
những đóng góp bổ sung để bản khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Đoàn Huy Quang
4

MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây khoai lang (Ipomoea batatas (L) Lam) có nguồn gốc từ khu vực
nhiệt đới châu Mỹ, được con người trồng cách đây trên 5.000 năm, là một
loại cây dễ trồng, thời gian sinh trưởng ngắn, thích nghi với nhiều loại
đất khác nhau kể cả trên đất xấu, nghèo dinh dưỡng. Khoai lang là một
trong các loại cây có củ có vị trí cao trong hệ thống cây lương thực,
được trồng phổ biến ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển.
Từ lâu, cây khoai lang đã trở thành một cây trồng gần gũi và thân
thiết với nhà nông. Nó không đòi hỏi nhiều phân bón, công lao động như
một số cây trồng khác và có thể chống chịu những điều kiện biến đổi bất
lợi về môi trường (bão, hạn, mưa lớn ) tốt hơn các cây lương thực khác.
Trồng khoai lang rất ít khi bị mất mùa do khả năng tái sinh thân lá rất
nhanh, trong vòng 15-20 ngày có thể cho thu hoạch một phần thân lá, 1 - 2
tháng có thể thu hoạch những củ nhỏ, trong khi các cây trồng khác như lúa,
ngô, sắn, đậu đỗ, khoai tây đều cần ít nhất trên 3 - 4 tháng mới cho thu
hoạch. Hơn nữa tất cả các bộ phận thân lá và củ khoai lang đều có thể cung
cấp năng lượng cho con người, động vật và làm thức ăn cho chăn nuôi. Vì
vậy, cây khoai lang được coi là cây lương thực có hiệu quả nhất trong việc
cứu nạn đói đã từng xảy ra trên thế giới.
Ngày nay, khi nền công nghiệp thực phẩm phát triển, khoai lang
được sử dụng làm nguyên liệu chế biến tinh bột, rượu, cồn, xiro, nước giải
khát, bánh kẹo…, chế biến ra rất nhiều món ăn đem lại thu nhập cao cho
người sản xuất, rồi nó sử dụng trong chăn nuôi điều đó đã đẩy vị trí của cây
khoai lang lên một tầm cao mới.
2 Không những thế, trong củ khoai lang có nhiều giá trị dinh dưỡng

được giải quyết.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự phân công của khoa Nông học, em
đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và phát triển của
một số giống khoai lang trong vụ Đông 2013 tại trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu
Lựa chọn được giống khoai lang có năng suất cao, chất lượng tốt để
giới thiệu và đưa ra sản xuất đại trà.
1.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Giúp sinh viên tiếp cận với công tác nghiên cứa khoa học vận dụng
những kiến thức vào thực tế, nâng cao trình độ chuyên môn đồng thời tạo
cho mình tác phong làm việc đúng đắn, nghiêm túc, sáng tạo đúc rút kinh
nghiệm quý báu từ thực tế sản xuất.
1.3.2. Ý nghĩa trong sản xuất
Làm cơ sở chọn các giống mới phù hợp với sinh thái ở Thái Nguyên.

4

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Nguồn gốc và phân loại
2.1.1. Nguồn gốc của cây khoai lang.

đây khi bán đảo Đông Dương được người ở các đảo khác trên Thái Bình
Dương hay ở phương Tây biết đến (Bùi Huy Đáp, 1984) [1]. Theo tài liệu cổ
như sách “Thực vật bản thảo”, “Lĩnh nam tập ký” và “Quảng Đông tân ngữ”
của Lê Quý Đôn thì khoai lang đã được nhập từ nước Lã Tống (đảo
Philippines) và đã được đưa vào nước ta khoảng cuối đời Minh (Viện Hán
nôm, 1995) [2].
Theo sách “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam”, nhà xuất bản
Khoa học xã hội và nhân văn 1987 đã viết : “Năm 1558 - năm Mậu Ngọ,
khoai lang từ Philippin được đưa vào Việt Nam, trồng đầu tiên ở An
Trường thủ đô tạm thời của đời Lê Trung Hưng (Hậu Lê), nay thuộc huyện
Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá”. Từ đó, cây khoai lang được đưa đi khắp mọi
nơi trên đất nước ta từ Bắc vào Nam và trở thành một trong 4 cây lương
thực chính của nền nông nghiệp nước ta.
2.1.2. Phân loại
Phân loại khoa học (bách khoa toàn thư mở Wikipedia):
Bộ (ordo): Solanales
Họ (familia): Convolvulaceae
Chi (genus): Ipomoea
Loài (species): I.batatas
Cây khoai lang (Ipomoea batatas (L) Lam) là cây hai lá mầm, thuộc
chi Ipomoe, họ bìm bìm (Convolvulaceae), trong tổng số gồm 50 tộc và
hơn 1.000 loài thuộc họ này chỉ có Ipomoea batatas có ý nghĩa kinh tế
quan trọng và sử dụng làm lương thực và thực phẩm. Số lượng loài trong
6

chi Ipomoea đã được xác định là hơn 400 loài nhưng Ipomoea batatas là
một loài cây trồng không được tìm thấy ở dạng hoang dại.
Với đặc tính đa dạng tất cả các phần của cây khoai lang, các nhà
khoa học đã nghiên cứu chia làm 2 nhóm chính:
- Nhóm giống khoai lang cho năng suất thân lá cao làm rau.

%
Lipit
%
Xenlulo

%
Tro
%
Khoai tươi 68,0 28,5 0,8 0,2 1,3 1,2
Khoai Khô 11,0 80,0 2,2 0,5 3,5 2,7

Ở Việt Nam các loại cây có củ rất phong phú có tới 12 loài cây khác
nhau, chúng được phân bố và sử dụng cũng khác nhau, vì chúng có các thành
phần hóa học và dinh dưỡng không giống nhau được thể hiện ở bảng 2.2:
Bảng 2.2: Thành phần hóa học và dinh dưỡng của một số loài cây có củ
Thành phần hóa học
trong 100g củ tươi
Sắn Củ từ
Khoai
lang
Khoai
sọ
Nước (g) 25,0 72,4 70,0 62,7
Gluxit (g) 34,0 24,1 27,3 29,3
Protein (g) 12,0 2,4 1,3 3,0
Lipit (g) 0,3 0,2 0,4 0,2
Sắt (mg) 0,7 0,8 1,0
Canxi (g) 33,0 22,0 34,0
Vitamin (mg) 36,0 10,0 23,0
Vitamin PP (B1) (mg) 0,6 0,5 0,6

Khoai lang 39,10 1,60 0,50
Cao lương 21,80 12,65 3,17
Ngô 74,40 11,80 5,10
Lúa 67,24 6,26 2,18
(Nguồn: Sản xuất chế biến sắn - Đinh Thế Lữ, 1972) [4]
Về hàm lượng chất khô và hàm lượng tinh bột của khoai lang vụ đông
thường thấp hơn vụ xuân trong “Nghiên cứu các dòng, giống triển vọng tại
Việt Nam” của (Ngô Xuân Mạnh, 1965) [5] chỉ tiêu chất khô cũng được tác
giả quan tâm đến. (Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự, 1990) [10] khi nghiên cứu
9

các giống trồng trong vụ đông và vụ hè cho thấy hàm lượng chất khô biến
động từ 23,4 - 33,8% (vụ đông) và 23-33% ( vụ hè). Còn theo Lê Doãn
Diên và Nguyễn Đình Huyên [7] cho thấy hàm lượng chất khô của 25
giống khoai lang được nghiên cứu có biến động từ 18,4 - 41,5%, trong đó
nhóm năng suất cao chất lượng tốt biến động từ 31,5 - 41,5%, nhóm năng
suất cao chất lượng kém biến động từ 18,45 - 23,7% và nhóm năng suất
thấp chất lượng kém biến động từ 21,8-31,1%.
2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và nghiên cứu khoai lang trên thế giới.
2.2.1.1. Tình hình sản xuất khoai lang trên thế giới.
Cây khoai lang là cây trồng đã có từ lâu trên thế giới. Nhiều nhà khoa
học cho rằng khoai lang được thuần hoá từ hơn 5.000 năm trước, có nguồn
gốc từ Mỹ la tinh, tuy nhiên vấn đề này chưa được thống nhất. Khoai lang
được du nhập vào Trung Quốc cuối thế kỉ 16. Do khả năng thích ứng rộng và
dễ nhân giống, khoai lang đã được mở rộng ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la
tinh vào thế kỉ 17 và 18. Hiện nay, khoai lang được phát triển mạnh ở những
nước đang phát triển. Khoai lang có hàm lượng hydrat cacbon và vitamin A
cao, dễ tiêu hơn gạo, mì và sắn. Sản phẩm khoai lang được sử dụng rất đa
dạng: ăn tươi, rau, làm bột, chế biến bánh kẹo, làm cồn hoặc thức ăn gia súc

đến năm 2010 thì cả diện tích, năng suất và sản lượng đều giảm xuống: về
diện tích là 8,1 triệu ha, năng suất đạt 13,14 tấn/ha, sản lượng đạt 10,65
triệu tấn.
Diện tích khoai lang trong các châu lục trên thế giới có sự khác nhau rất
rõ nét nguyên nhân là do điều kiện thời tiết của các vùng có sự khác nhau.
Châu Á luôn dẫn đầu về diện tích so với các châu lục khác sau đó đến châu
Phi qua các năm. Mặc dù trong những năm gần đây diện tích trồng khoai
lang của châu Á đang có xu hướng giảm nhưng vẫn luôn chiếm trên 50% về
diện tích trồng khoai lang của toàn thế giới. Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Úc
có diện tích trồng khoai lang rất nhỏ. Sự tăng giảm về diện tích có sự khác
nhau giữa các châu lục, và khác nhau giữa các năm. Nhìn chung diện tích
trồng khoai lang của toàn thế giới có xu hướng giảm: năm 2004 diện tích
11
trồng khoai lang của toàn thế giới là 9,13 triệu ha đến năm 2006 chỉ đạt 8,07
triệu ha và sang đến năm 2010 thì đã tăng thêm và đạt 8,10 triệu ha.
2.2.1.2. Tình hình nghiên cứu giống khoai lang trên thế giới.
Khoai lang là một cây trồng cạn và có khả năng chịu được nhiều điều
kiện khí hậu và thổ nhưỡng khác nhau. Khoai lang có thể chịu lạnh tốt hơn
các cây có củ nhiệt đới khác (sắn, khoai sọ…), nhưng không chịu được
sương giá và phát triển tốt nhất ở nhiệt độ trung bình khoảng 24
0
c. Khoai
lang là cây ngày ngắn nên ít khi ra hoa nếu độ dài ngày vượt quá 11 giờ. Rễ
củ sẽ phát triển đầy đủ trong vòng từ 2 đến 9 tháng tùy thuộc vào giống và
các điều kiện chăm sóc. Khoai lang được nhân giống chủ yếu bằng phương
pháp vô tính, thường được trồng từ các đoạn thân (dây khoai lang) hay rễ
hoặc bằng các rễ bất định mọc ra từ các rễ củ trong khi lưu giữ bảo quản.
Các hạt hầu như chỉ dành cho mục đích gây giống.
Những năm gần đây công tác chọn tạo giống khoai lang của thế giới
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Hầu hết những nước trồng nhiều khoai

tích được, thì số lượng kiểu gen mong muốn được chọn lọc chính xác có
thể sẽ tăng lên. Một nghiên cứu gần đây ở Georgia, Mỹ chỉ rõ rằng có thể
phát hiện sự khác biệt về mùi thơm giữa các giống khoai lang nhờ phương
pháp sắc ký khí. Cũng có thể phân tích được tỷ lệ đường và các axit hữu cơ
trong củ khoai lang.
Nước Mỹ đã chọn tạo ra nhiều giống khoai lang chất lượng cao, phổ
biến các giống khoai lang có ruột củ màu cam đậm, dẻo và có hương vị
thơm để tiêu thụ tươi như một loại rau xanh cao cấp và dùng trong công
nghiệp thực phẩm. Mỹ hiện đang tiếp tục thực hiện các nghiên cứu chọn
giống khoai lang chất lượng cao giàu protein, vitamin A và có hương vị
thơm; ứng dụng công nghệ gen, công nghệ tế bào trong tạo giống.
Ở các nước Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc đã chọn tạo và đang
13
trồng phổ biến nhiều giống khoai lang năng suất cao, chất lượng tốt mã củ
thuôn đẹp, có hàm lượng chất khô cao (30%). Trung Quốc là nước có nhiều
giống khoai lang đạt năng suất cao từ 35-55 tấn/ha. Trung tâm nghiên cứu
khoai tây Quốc tế (CIP) đã và đang giúp các nước đang phát triển trong đó
có Việt Nam chọn tạo giống theo hướng này.
Nhật Bản đã chọn tạo được và đang trồng phổ biến những giống
khoai lang năng suất cao, chất lượng tốt như mã củ đẹp, vỏ nhẵn, hàm
lượng chất khô cao (phần lớn trên 30% khối lượng tươi) như giống khoai
Kokey 14. Hiện nay Nhật bản đang chọn tạo giống khoai lang để sử dụng lá
làm rau xanh, làm nước sinh tố và thực phẩm có màu tím hoặc màu cam
đậm tự nhiên. Nhược điểm khoai lang Nhật khi trồng ở Việt Nam là thời
gian sinh trưởng dài trên 115 ngày.
Trung Quốc là quốc gia trồng nhiều khoai lang nhất; chiếm trên 80%
sản lượng toàn thế giới (năm 2011 đạt 75.567 nghìn tấn). Trong quá khứ,
phần lớn khoai lang tại Trung Quốc được trồng để làm lương thực, nhưng
ngày nay có 60% sản lượng khoai lang được sử dụng để nuôi lợn. Phần còn
lại được dùng làm lương thực hay chế biến các sản phẩm khác cũng như để

thức ăn gia súc dưới dạng củ tươi. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung
bộ, Duyên hải miền Trung, một lượng lớn Khoai lang được phơi khô (củ
thái lát, thân lá phơi khô dã thành bột). Tình hình sản xuất khoai lang trong
những năm gần đây được trình bày ở bảng 2.6:
Số liệu bảng 2.6 cho thấy diện tích trồng khoai lang ở Việt Nam
giảm dần trong những năm gần đây, từ 175.500 ha (năm 2007) xuống còn
148.500 ha (năm 2011), năng suất tương đối ổn định và tăng dần trong 2
năm 2010 và 2011, do vậy sản lượng giảm dần qua các năm theo diện tích
bị giảm dần. Đây là vấn đề mà các nhà hoạch định quản lý và khoa học
phải xác định rõ nguyên nhân làm giảm diện tích và biện pháp thúc đẩy và
15
năng cao năng suất, đặc biệt là các giống khoai lang chất lượng cao.
Bảng 2.6: Tình hình sản xuất khoai lang ở Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011
Năm
Diện
t
íc
h
(ha)

Năng
s
u
ất
(tấn/ha)

Sản
lượ
n
g


n
g
n
ă
m 2010 -
2011

(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2013) [12]
Mặc dù diện tích cây khoai lang có chiều hướng giảm xuống và năng
suất tăng lên một cách chậm chạp nhưng cây khoai lang cũng còn giữ một
vị trí và vai trò nhất định trong sản xuất lương thực, bởi khoai lang có tính
thích ứng rộng, thời gian sinh trưởng ngắn, đòi hỏi mức đầu tư không thật
cao cũng đã đạt được năng suất khá cao. Hạn chế của khoai lang là việc bảo
quản khoai lang củ tươi gặp nhiều khó khăn trong điều kiện nóng ẩm ở
nước ta, trong lúc đó công nghệ sau thu hoạch đối với khoai lang phát triển
còn rất chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, sản phẩm khoai
lang chưa trở thành sản phẩm hàng hoá. Vùng sản
xu
ất

Năm 2
010
Năm
2011

DT

tấn
)

Đồng bằng sông
Hồng
27,0 91,48 247,0

26,1

92,56

241,9

Trung du và miền núi

phía Bắc
39,9 64,23 256,3

37,7

66,57

251,0

Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền
Trung

53,9 63,19 340,6


2.2.2.2. Tình hình nghiên cứu giống khoai lang ở Việt Nam
Cũng như nhiều loại cây trồng khác mục tiêu chọn tạo giống khoai
lang rất đa dạng tùy theo mục đích sử dụng, các chỉ tiêu như: năng suất,
chất lượng củ, năng suất chất lượng thân lá và khả năng thích ứng tốt với
điều kiện ngoại cảnh bên ngoài là yêu cầu cần thiết để sản suất và tiêu thụ
có hiệu quả. Theo (Vũ Đình Hòa, 1994) chọn giống khoai lang mang đặc
điểm của cả cây sinh sản vô tính lẫn hữu tính nên chọn theo hai cách:
Chọn giống vô tính tốt bằng phương pháp gây đột biến nhân tạo, đột
biến tự nhiên làm cây khởi nguyên của giống vô tính mới.
Lai kiểm soát, thụ phấn tự do trong vườn đa giao hoặc thụ phấn
tự do hoàn toàn và lai cách xa, cây trồng từ hạt được chọn nghiên cứu
cây tốt nhất để làm dạng khởi nguyên của giống vô tính mới. Vì vậy
cây con có đặc điểm di truyền khác với cây bố mẹ và đều có khả năng
trở thành giống mới.
Trong quá trình chọn tạo giống khoai lang bằng phương pháp lai
hữu tính, sự cản trở lớn nhất là sự kết hợp và bất dục. Hệ thống di truyền
kiểm tra sự tự bất hợp là hệ thống bất hợp dạng bào tử có thể kiểm soát bởi
một hay nhiều lôcut khác nhau, mỗi lôcut có 2 alen biểu thị sự tương quan
trội. Do bản chất đa bội, sự biểu hiện và mức độ của tính trạng là kết quả
của sự tái tổ hợp các gen và ưu thế lai. Sự bất hợp của khoai lang chứng tỏ
dị hợp tử là cần thiết để duy trì sức sống và cho năng suất.
Trong thời gian gần đây khoai lang được nguyên cứu ở các Viện,
trường Đại học dưới sự tài trợ của nhà nước và các tổ chức quốc tế. Trung
tâm nghiên cứu cây có củ thuộc Viện khoa học kỹ thuật Nông Nghiệp Việt
Nam là những cơ sở chính thông qua sự hợp tác của chính phủ với các cơ
sở trên, đã tiến hành tổ chức nhập nội, lai tạo và khảo nghiệm các dòng
khoai lang mới ở các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước.
18
Trong thời gian gần đây công tác chọn, khảo nghiệm khoai lang chủ
yếu bằng phương pháp lai hữu tính. Phương pháp này đã giúp cho các nhà

trưởng mạnh 100-120 ngày, năng suất củ từ 12-15 tấn/ha, có tính thích
ứng rộng, thích hợp với vùng đất nghèo dinh dưỡng nhất là vùng trung du
miền núi Bắc bộ.
* Cũng bằng phương pháp lai hữu tính, tác giả Nguyễn Thế Yên bộ
môn cây có củ thuộc Viện cây lương thực – Cây thực phẩm, 1999 [6] đã
chọn lọc được 3 dòng khoai lang làm thức ăn cho gia xúc: KL1, KL2, KL5.
Trong đó KL1, KL2 có thân lá to mập. Năng suất lá của KL1 trung bình đạt
25 - 30 tấn/ha, năng suất củ đạt 16 - 18 tấn/ha, hàm lượng chất khô, giá trị
dinh dưỡng cao, củ bở ngon.
Ngoài ra, trong thời gian gần đây Viện khoa học kỹ thuật nông
nghiệp Việt Nam đã lai tạo ra các giống mới như: KB1 và K51:
* Giống K51 là giống lai giữa một giống nhập nội CN1028-15 với
giống số 8 trước đây. Đặc điểm: Thời gian sinh trưởng ngắn 80 - 90 ngày,
thân đứng, nhiều nhánh, đốt thân ngắn, lá hình tim xanh đậm cả thân và lá,
thân lá không chát, vỏ củ màu vàng, lõi vàng đậm, ra củ sớm, năng suất củ
trung bình từ 20 - 30 tấn/ha, trồng được quanh năm và đã được công nhận
là giống Quốc gia vào 16/11/2000 theo quyết định số 5218 của Bộ nông
nghiệp và phát triên nông thôn.
Những giống này được thể hiện qua bảng 2.8
20
Bảng 2.8: Năng suất thân lá và củ của một số dòng, giống khoai lang
Chỉ tiêuGiống
Năng suất thân lá
(tấn/ha)
Năng suất củ
(tấn/ha)
Tươi Khô

trên diện tích đất 2 lúa 1 màu của các huyện phía nam tỉnh như Phổ Yên,
Phú Bình, Phú Lương… đa số cây khoai lang tại Thái Nguyên mới chỉ
được trồng trong quy mô hộ gia đình với diện tích nhỏ chủ yếu để phục
vụ chăn nuôi và làm rau ăn hàng ngày.
21
Bảng 2.9: Tình hình sản xuất khoai lang tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2007-2011
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2007 8,7 5,77 50,2
2008 7,9 5,91 46,7
2009 6,9 5,75 39,7
2010 7,1 6,18 43,9
2011 7,3 6,34 46,3
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2013)[12]

Theo số liệu thống kê tại bảng 2.9 cho thấy diện tích khoai lang của
Thái Nguyên năm 2011 (7,3 nghìn ha) đã được nâng lên trong những năm
gần đây tuy nhiên vẫn giảm so với năm 2007 (8,7 nghìn ha) tuy nhiên
năng suất bình quân năm 2007 chỉ đạt 5,77 tấn/ha đến năm 2011 năng
suất đã đạt 6,34 tấn/ha tăng 0,57 tấn/ha song vẫn thấp hơn năng suất trung
bình của cả nước. Điều này cho thấy việc trồng và phát triển cây khoai
lang ở tỉnh Thái Nguyên chưa được đầu tư và quy hoạch phát triển một
cách hợp lý. Với nhu cầu tiêu dùng khoai lang hiện nay Thái Nguyên nên
đưa khoai lang vào cơ cấu cây trồng, có bộ giống tốt phù hợp với điều


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status