CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM - Pdf 30

CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang
• Danh mục các từ viết tắt………………………………….....................…………......2
• Lời nói đầu ........................................................................................................................3
Chương I
Lý thuyÕt Chung
1.Khái niệm - Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế………………………………..……4
2.Khái niệm- Các tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng………………..…….…………5
Chương II
CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA MALAIXIA
1.Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định…………………………………………………..…..12
2. Năng suất nhân tố tổng hợp TFP đang có dấu hiệu cải thiện………………………..…..15
3. Phúc lợi xã hội ngày càng được nâng cao, công bằng xã hội ngày càng
được cải thiện…………………………………………………………….………………17
4. Thành công trong chiến lược xóa đói giảm nghèo……………………………………….19
Chương III
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1
1.Chất lượng tăng trưởng trong kinh tế……………………………………………….……20
2. Nâng cao phúc lợi, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghè……………………….……22
• Kết luận………………………………………………………………………...……25
• Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….……26
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNI Thu nhập quốc dân
GNP Tổng sản phẩm quốc dân thực tế
HDI Chỉ số phát triển con người
ICOR Tỷ số gia tăng vốn trên sản lượng cận biên
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp

cũng sẽ tương tự như nhau nếu sử dụng cả hai chỉ tiêu GDP và GNP thực tế. Vì thế cũng có
thể định nghĩa tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng phần trăm hàng năm của tổng sản phẩm
quốc dân GNP hay GNP bình quan đầu người. Tuy nhiên ý nghĩa của hai công cụ đo lường
GNP và GDP có khác nhau tuỳ mục đích nghiên cứu.
GDP đo lường tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) không tính đến yếu tố sở
hữu. Khi sử dụng GDP thì tốt hơn nếu muốn nói đến quy mô của nền kinh tế trong quan hệ so
4
sánh giữa các quốc gia. GDP bình quân đầu người đo lường số lượng hàng hoá và dịch vụ
được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân, điều này có ý nghĩa khi muốn nói tới năng
lực sản xuất, năng suất lao động. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới chỉ dừng lại ở mặt "lượng" mà
chưa đề cập đến mặt "chất" của nền kinh tế. Với một nền kinh tế mà chủ yếu là dựa vào đầu tư
nước ngoài, là công xưởng của thế giới thì có thể GDP có được một quy mô rất lớn nhưng ý
nghĩa của nó lại rất hạn chế.
Khi sử dụng chỉ tiêu GNP thì lại tốt hơn đề nói về kết quả sản xuất của một quốc gia vì
GNP đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của một quốc gia
sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm). Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng vì nó cho
phép đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. GNP bình quân đầu người nói đến số
lượng hàng hoá và dịch vụ mà một người dân của một nước có thể mua được. Vì thế nghiên
cứu tình hình kinh tế cụ thể của một nước, chỉ tiêu GNP và GNP bình quân đầu người phản
ánh xác thực tốc độ tăng trưởng kinh tế và biến động mức sống của dân cư nước đó. Do đó
mức sống của cư dân một ngước phụ thuộc vào độ lớn của GNP và quy mô dân số. Nền kinh
tế của một quốc gia sẽ phát triển nhanh chóng nếu quốc gia đó vừa duy trì được tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế cao, vừa kiểm soát được gia tăng dân số.
Việc đo lường và xác lập mối quan hệ giữa GDP và GNP bình quân đầu người là rất
quan trọng. Kinh tế học đã tìm ra hai chỉ tiêu này như là hai chỉ tiêu bắt buộc và không thể thay
thế được, dùng để tính toán mức tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, tất cả chính phủ của các quốc
gia và các tổ chức kinh tế trên thế giới đều phải tiến hành thu thập và dựa vào các số liệu thu
thập được về GDP và GNP để lập các nghiên cứu toàn diện về kinh tế trên phạm vi thế giới
cũng như quốc gia, làm cơ sở để lập ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và đề ra các

vị trí trung tâm là tăng trưởng kinh tế, nhưng không chỉ là tốc độ tăng (về số lượng) của nó, mà
cũng quan trọng như vậy là cả chất lượng của tăng trưởng.
6
Đến đây, chúng ta có thể nói rằng, các phạm trù - phát triển và phát triển bền vững,
tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng - có mối quan hệ gần gũi với nhau, nhưng không trùng
lặp, mà bổ sung lẫn cho nhau. Mỗi phạm trù đều có nội hàm riêng, thể hiện quá trình phát triển
của tư duy, nhận thức của con người về tự nhiên, về xã hội và về bản thân cuộc sống của mình.
2.2 Các tiêu chí đánh giá
Có thể thấy, phạm vi của khái niệm "chất lượng tăng trưởng" là khá rộng và các tiêu chí
định lượng để đánh giá nó vẫn còn trong quá trình tiếp tục được nghiên cứu, xác định. Cho đến
nay, vì nhiều lý do, trong đó có việc cho phép so sánh quốc tế, GDP (GNP) và GDP (GNP)
bình quân đầu người (cả số tuyệt đối và số tương đối) vẫn là hai tiêu chí được cả thế giới thừa
nhận và sử dụng để đo lường, đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, cũng từ lâu trong
kinh tế học, cả lý thuyết và thực hành, người ta đã lưu ý về những điểm hạn chế, điểm không
phù hợp của các thước đo này, nhất là liên quan đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống và trong
những khía cạnh xã hội của quá trình phát triển. Với sự phân biệt ngày càng chi tiết và sâu sắc
giữa "tăng trưởng" và "phát triển", đặc biệt là trong quá trình xây dựng các tiêu chuẩn về phát
triển bền vững, các học giả kiến nghị rằng thước đo về phát triển phải bao gồm không chỉ tốc
độ tăng trưởng, mà cả các khía cạnh về chất lượng như cơ cấu, sự phân bổ và tính bền vững
của tăng trưởng. Từ đó, trong hoạt động thực tiễn ở nhiều quốc gia, một số tiêu chí và đại
lượng đã lần lượt được áp dụng.
Tăng trưởng kinh tế (theo nghĩa nguyên gốc, gắn với GDP) bắt nguồn từ ba yếu tố đầu
vào là vốn, lao động và tiến bộ công nghệ (bao quát công nghệ sản xuất, kỹ năng quản lý và
một số khía cạnh liên quan khác). Để đánh giá ba yếu tố này, lâu nay, người ta sử dụng các
tiêu chí ICOR, năng suất lao động và năng suất nhân tố tổng hợp - TFP. Còn về phía đầu ra, từ
góc độ kinh tế thuần túy, để bảo đảm sự ổn định và tính bền vững cho bản thân tăng trưởng,
chắc chắn phải xem xét nhiều vấn đề như vấn đề tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tái
đầu tư và phân bổ nguồn lực... Riêng về phía đầu ra của tăng trưởng phục vụ cho con người,
nghĩa là về các khía cạnh của tăng trưởng liên quan đến chất lượng cuộc sống, đến các lĩnh
vực xã hội và môi trường, từng bước người ta đã đưa vào sử dụng các tiêu chí khác nhau, trong

sung, người ta quan tâm nhiều đến tiến bộ công nghệ và các biện pháp quản lý, điều hành, cả ở
tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều nghiên cứu đã được các học giả trên thế giới tiến hành về vai trò
của TFP đối với tăng trưởng. Đối với một quốc gia, vốn và lao động là những đại lượng hữu
hạn, vì thế các học giả khuyến cáo các chính phủ cần tập trung thúc đẩy TFP. Họ cũng đi đến
kết luận rằng sự khác biệt giữa các quốc gia về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng phần lớn
bắt nguồn từ khác biệt trong TFP. Đến nay, trong nghiên cứu phân tích tăng trưởng kinh tế,
người ta thống nhất chỉ tập trung vào ba thành phần tạo nên tăng trưởng là vốn, lao động và
TFP (trong hệ thống số liệu thống kê công bố hàng năm, nhiều nước đã công bố tỷ lệ phần
trăm đóng góp của từng thành phần trong tăng trưởng GDP). Có nhiều yếu tố có thể góp phần
thúc đẩy TFP. Năng lực tổ chức và quản lý; hệ thống giáo dục quốc gia cùng với hoạt động
nghiên cứu - triển khai, công tác phổ biến và chuyển giao công nghệ; việc phân bổ nguồn lực;
chính sách kinh tế, v.v… đều đóng góp vào việc đó. Giáo sư D. Dapice trong bài giảng tại
Chương trình Fulbright ở Tp. Hồ Chí Minh đã có một dẫn chứng rất ấn tượng, khi nói rằng:
Sản lượng nông nghiệp tăng lên rõ rệt sau Đổi mới ở Việt Nam là một ví dụ.
- Về Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI):
Đây là một thước đo tổng hợp có giá trị bằng trung bình cộng giản đơn của ba chỉ số
phản ánh thành tựu của mỗi quốc gia về ba phương diện của sự phát triển con người: sức khoẻ
- đo bằng tuổi thọ trung bình; kiến thức - đo bằng tỷ lệ biết chữ của người lớn cộng với tỷ lệ
nhập học ở các cấp giáo dục; mức sống - đo bằng GDP thực tế bình quân đầu người tính theo
phương pháp sức mua tương đương (PPP). Thành tựu trong mỗi lĩnh vực được đo bằng
khoảng cách mà một quốc gia đã phấn đấu đạt được so với các mục tiêu được coi là "chuẩn" -
tuổi thọ trung bình là 85 tuổi, tỷ lệ biết chữ và nhập học là 100% và GDP thực tế bình quân
đầu người tính theo PPP là 40.000 đôla. Mặc dù đó là những mục tiêu rất đáng có nhưng đến
nay chưa một quốc gia nào đạt được trọn vẹn các mục tiêu lý tưởng này và chỉ số được thể
hiện bằng tỷ lệ phần trăm của con số thực tế so với chuẩn. HDI có giá trị từ 0 đến 1, trong đó 1
là cao nhất, là đích vươn tới, còn 0 là thấp nhất.
9
Ưu thế của chỉ số HDI là nó cho phép xếp hạng các quốc gia theo thành tích họ đạt được
trong phát triển con người nói riêng và trong phát triển nói chung. Song, điểm yếu của nó là ở
chỗ đưa ra được rất ít thông tin về từng quốc gia và cũng không cho biết về tỷ trọng tương đối


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status