Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - Pdf 31

1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẺ VÀ HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN THẺ
1.1 TỔNG QUAN VỀ THẺ THANH TOÁN
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ
Dấu hiệu của phương thức tín dụng tiêu dùng với phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt xuất hiện lần đầu tại Mỹ vào năm 1920 dưới cái tên gọi
tạm thời là “đĩa mua hàng” (shopper’s plate). Trên thực tế, đây là một hình thức
sơ khai của thẻ mua hàng (store card) hiện đại. Người chủ sở hữu của loại đĩa
này có thể mua hàng tại cửa hiệu phát hành ra chúng và hàng tháng họ phải hoàn
trả đầy đủ tiền hàng cho chủ cửa hiệu. Thực chất các cửa hàng phát hành ra đĩa
này đã đồng thời cung cấp cho người mua hàng một hình thức tín dụng cơ bản,
đó là “mua hàng trước và chi trả sau” (buy now, pay later).
Tuy nhiên, thẻ ngân hàng được coi là chính thức xuất hiện lần đầu tiên
vào năm 1949 tại Mỹ xuất phát từ một trường hợp rất ngẫu nhiên. Một doanh
nhân tên là Frank Mc Namara trong một bữa ăn tối tại nhà hàng, chợt nhận ra
mình không mang theo tiền để thanh toán, ông ta đành gọi điện về nhà nhắn
người mang tiền đến giúp. Chính trong tình huống đó, ông chợt nảy ra ý tưởng
về một loại phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt có thể sử dụng ở nhiều
nơi. Năm 1950, chiếc thẻ nhựa đầu tiên bắt đầu ra đời với tên gọi là thẻ tín dụng
Diners Club. Với lệ phí hàng năm là 5 USD, những người mang thẻ Diners Club
có thể ghi nợ khi ăn tại 27 nhà hàng nằm trong hoặc ven thành phố New York.
Ngược lại, các nhà bán lẻ trong hệ thống Diners Club bị tính chiết khấu 5% trên
mỗi món hàng bán ra.
Xuất phát từ một ý tưởng, nhưng những tiện ích mà những chiếc thẻ đầu
tiên mang lại đã nhanh chóng chinh phục được đông đảo khách hàng. Các khách
hàng - chủ thẻ rất hài lòng về sự tiện lợi khi sử dụng thẻ cũng như các khoản vay
từ thẻ. Người tiêu dùng khi sử hữu phương tiện thanh toán này có thể mua hàng
Đào Thu Trang - Lớp 4031
2

3
Năm 1960, Bank of America giới thiệu sẩn phẩm thẻ đầu tiên của mình -
BANKAMERICARD. Thẻ BANKAMERICARD phát triển rộng khắp và trong
những năm tiếp theo, ngày càng nhiều các tổ chức tài chính ngân hàng trở thành
thành viên của BANKAMERICARD. Những thành công của
BANKAMERICARD đã thúc đẩy các nhà phát triển thẻ khác trên khắp nước Mỹ
bắt đầu tìm kiếm phương thức cạnh tranh với loại thẻ này.
Đến năm 1966, 14 ngân hàng hàng đầu của Mỹ thành lập Interbank - một
tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ.
Ngay sau đó, năm 1967, 4 ngân hàng bang California đổi tên của họ từ
California Bank Card Association thành Western State Bank Card Association
(WSBA), WSBA đã liên kết với Interbank để phát hành thẻ
MASTERCHARGE. Tổ chức WSBA cho phép Interbank sử dụng tên và biểu
tượng MASTERCHARGE của mình. Vào cuối những năm 60, một số lớn các tổ
chức tài chính ngân hàng trở thành thành viên của MASTERCHARGE - đối thủ
cạnh tranh của BANKAMERICARD.
Những năm sau đó, tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng đã hoặc đang
quan tâm đến việc phát hành thẻ ở Mỹ đều trở thành thành viên của
BANKAMERICARD hoặc MASTERCHARGE. Các Hiệp hội ngân hàng và các
thành viên của họ cùng chia sẻ chi phí hệ thống hoạt động thẻ, làm cho ngay cả
các tổ chức tài chính ngân hàng rất nhỏ cũng có thể tham gia vào hệ thống này.
Tuy nhiên, điều này cũng có nghĩa là các nhà phát hành thẻ chỉ tìm kiếm được
lợi nhuận cao nếu họ biết cách phát triển rộng khắp mạng lưới khách hàng, chủ
thẻ và cở sở chấp nhận thẻ. Hệ thống này mang lại lợi nhuận cho tất cả các thành
viên và thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ về mạng lưới chủ thẻ, cơ sở chấp nhận
thẻ cũng như doanh số bán hàng bằng thẻ.
Sức ép về việc phải tăng mạnh số lượng chủ thẻ làm cho nhiều tổ chức tài
chính bắt đầu phát hành thẻ một cách bừa bãi, thậm chỉ bỏ qua cả quá trình xét
duyệt đơn xin phát hành và thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Một
số lượng lớn thẻ đã bị mất trên đường gửi từ nhà phát hành thẻ đến khách hàng

Nhật Bản lần đầu tiên cho ra đời thẻ JCB với mục tiêu chủ yếu hướng vào thị
trường giải trí và du lịch. Chiếc thẻ nhựa đầu tiên do ngân hàng Barclay Bank
Đào Thu Trang - Lớp 4031
5
phát hành trên cơ sở thẻ VISA năm 1966 tại Anh cũng đã mở ra một thời kỳ sôi
động tại lục địa Châu Âu.
Thẻ ngân hàng lần đầu tiên được chấp nhận tại Việt Nam vào năm 1990,
khi Vietcombank ký hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa với ngân hàng Pháp
BFCE và đã mở đầu cho phương thức thanh toán mới này tại Việt Nam.
Ngày nay thẻ ngân hàng đã có mặt trên khắp thế giới với các hình thức,
chủng loại đa dạng, phong phú đang ngày càng đáp ứng đầy đủ những nhu cầu
riêng lẻ của người tiêu dùng. Cùng với sự phát triển của hai tổ chức thẻ quốc tế
Visa và Mastercard, trên thế giới còn có hàng loạt tổ chức thẻ khác mang tính
quốc tế và khu vực ra đời như: JCB Card, American Express Card, Airplus,
Maestro Eurocard, Visioncard… Sự phát triển mạnh mẽ này đã khẳng định xu
thế phát triển tất yếu của thẻ. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học
của thế giới về khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ tin học, hệ thống thẻ
ngày càng hoàn thiện. Không chỉ dừng lại ở mối quan hệ đơn giản như thời kỳ
trước, hệ thống tín dụng thẻ ngày nay bao gồm cả các tổ chức thẻ quốc tế, các tổ
chức tài chính ngân hàng, các công ty cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật,
các công ty viễn thông quốc tế… Cùng với mạng lưới thành viên và khách hàng
phát triển từng ngày, các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng hệ thống xử lý giao
dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, cấp phép, thanh toán, tra soát,
hoàn trả, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD
mỗi năm, thẻ đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống
thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đối với một ngành kinh
doanh mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.2. Khái niệm thẻ
“Thẻ ngân hàng” (Bank card) hay còn gọi là “tiền nhựa” (Plastic money),
sau đây gọi tắt là thẻ, là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do

một thể thống nhất như: số thẻ, ngày hết hạn, các yếu tố kiểm tra an
toàn khác.
− Băng giấy ghi chữ ký
Đào Thu Trang - Lớp 4031
7
− Ngoài ra còn có thể có các thông tin khác để tăng tính an toàn của thẻ
như: số mật mã đợt phát hành, ký hiệu riêng của từng tổ chức, hình của
chủ thẻ…
Biểu tượng của một số thẻ ngân hàng thông dụng trên thế giới

1.1.4 Phân loại thẻ
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau để phân chia thì ta thấy thẻ ngân hàng
rất đa dạng. Người ta có thể nhìn nhận nó từ góc độ chủ thể phát hành, công
nghệ sản xuất hay là phương thức hoàn trả.
1.1.4.1 Phân loại theo chủ thể phát hành thẻ
Thẻ do ngân hàng phát hành
Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khác hàng sử dụng linh động
tài khoản của mình tại ngân hàng hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín
dụng. Đây là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu hiện nay, ví dụ
như thẻ Visa, Mastercard, JCB.
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành
Đó là thẻ du lịch và giải trí gọi tắt là T&E (Travel and Entertainment) của
các tập đoàn kinh doanh lớn như Diners Club, Amex… Ngoài ra, một số công ty
lớn cũng phát hành thẻ riêng cho các đối tượng của công ty hướng theo mục
đích kinh doanh: công ty xăng dầu, các cưa hiệu lớn …
1.1.4.2 Phân loại theo công nghệ sản xuất
Thẻ khắc chữ nổi (Embossing card)
Đây là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi với các thông tin
cần thiết được khắc trên thẻ. Công nghệ này được sử dụng từ khi phát hành tấm
Đào Thu Trang - Lớp 4031

9
Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó chủ thẻ được phép sử
dụng một hạn mức tín dụng qui định không phải trả lãi (nếu chủ thẻ hoàn trả số
tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn) để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở
kinh doanh, cửa hàng, khách sạn … chấp nhận loại thẻ này.
Về bản chất đây là một dịch vụ tín dụng thanh toán với hạn mức chi tiêu
nhất định mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn cứ vào khả năng tài chính,
số tiền ký quĩ hoặc tài sản thế chấp của khách hàng. Khoảng thời gian từ khi thẻ
được dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiền cho ngân
hàng có độ dài phụ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau.
Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở
thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được miễn lãi đối với số dư nợ cuối
kỳ. Tuy vậy, nếu hết thời gian này mà một phần hay toàn bộ số dư nợ cuối kỳ
chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí
và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn
mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất
“tuần hoàn” (revolving) của thẻ tín dụng.
Thẻ tín dụng là công cụ thanh toán hiện đại, văn minh và có tính thông
dụng trên toàn thế giới. Không chỉ thanh toán giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia mà thẻ tín dụng quốc tế có thể được chấp nhận thanh toán ở tất
cả các cơ sở có trưng biểu tượng của thẻ đó trên khắp thế giới. Các ngân hàng
nội địa của nhiều nước khác nhau thường áp dụng song song hai hệ thống thẻ tín
dụng: trong nước bằng đồng bản tệ và sử dụng ở nước ngoài bằng đồng đô la
dưới những thương hiệu thẻ nổi tiếng. Do vậy dù trong nước hay nước ngoài các
loại thẻ này cũng mang đến tiện ích cho khách hàng và là nguồn lợi nhuận quan
trọng của ngân hàng. Trên thế giới hiện nay phổ biến hai loại thẻ tín dụng được
khác du lịch rất ưa chuộng là VISA và Mastercard.
Bên cạnh thẻ tín dụng thông thường, sau đây là một số hình thức thẻ tín
dụng khác được sử dụng trên thế giới:
• Thẻ ngân sách (Budget Card)

thưởng… mà đem tới cảm giác khác biệt vì được tôn trọng về mặt tinh thần, về
Đào Thu Trang - Lớp 4031
11
các giá trị xã hội vì trở thành thành viên của một nhóm người ủng hộ một phong
trào hoặc chủ trương nào đó. Một trong những ví dụ của thẻ Affinity card là thẻ
MasterCard liên kết giữa ngân hàng DBS của Singapore với Liên đoàn bóng đá
thế giới phát hành sản phẩm thẻ DBS MasterCard 2002 FIFA World Cup.
• Thẻ mua hàng (Store Card)
Thẻ mua hàng do một số cửa hiệu siêu thị và trạm xăng phát hành. Thẻ mua
hàng cũng giống như thẻ tín dụng, thẻ tính tiền hoặc thẻ ngân sách nhưng chỉ
khác một điểm là thẻ này chỉ sử dụng tại các cửa hiệu hoặc một nhóm các cửa
hiệu phát hành thẻ. Thẻ mua hàng thông thường chịu lãi suất cao hơn thẻ tín
dụng thông thường được chấp nhận trên toàn thế giới. Mọi giao dịch thẻ chỉ diễn
ra giữa người sản xuất và chủ thẻ. Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để thanh toán và
sử dụng tín dụng nhưng không thể rút tiền mặt.
b. Thẻ ghi nợ (Debit card)
Thẻ ghi nợ là phương tiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt
trên cơ sở số tiền của chính chủ thẻ, mà ngân hàng phát hành không cấp tín dụng
cho khách hàng. Mỗi khi chủ thẻ thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thì ngân hàng
phát hành sẽ tự động trích nợ số tiền từ tài khoản của chủ thẻ và chuyển tiền đó
vào tài khoản của người bán. Thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại
các máy giao dịch tự động ATM.
Với tính chất không có hạn mức tín dụng, thẻ ghi nợ thường được cấp cho
khách hàng có số dư tài khoản tiền gửi thường xuyên ghi Có. Tuy nhiên, tuỳ
theo sự thoả thuận của chủ thẻ và ngân hàng phát hành, nếu số dư trên tài khoản
của chủ thẻ không đủ thanh toán, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu
chi (Chi vượt quá số tiền hiện có trên tài khoản). Với hình thức thấu chi, thẻ ghi
nợ đã giúp cho cá nhân, doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng ngắn hạn
mà không cần làm nhiều thủ tục.
Đứng ở góc độ ngân hàng mà nói thì việc phát hành thẻ ghi nợ an toàn hơn vì

ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức thẻ đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau
tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao
Đào Thu Trang - Lớp 4031
13
dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay, hai hệ thống ATM lớn nhất trên thế giới
là CIRRUS của MasterCard và PLUS của VISA, sẵn sàng cho phép thẻ của các
ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới rộng
khắp toàn cầu.
1.1.4.4 Phân loại theo mục đích sử dụng:
a. Thẻ cá nhân
Là loại thẻ dùng cho mục đích thanh toán của cá nhân, chủ thẻ chịu trách
nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình thông qua tài khoản mở tại ngân
hàng phát hành.
b. Thẻ công ty (Business card/commercial card)
Là loại thẻ được phát hành cho nhân viên của công ty sử dụng, nhằm giúp
cho các công ty này quản lý chặt chẽ việc chi tiêu của nhân viên mình vì mục
đích công việc. Hàng tháng, hàng quý và hàng năm, công ty sẽ được cung cấp
những thông tin quản lý một cách tóm tắt và chi tiết về sự chi tiêu của từng chủ
sở hữu thẻ của công ty này.
Thẻ công ty có một số hình thức như sau:
• Thẻ du lịch (Travel cards/Corporate Cards)
Là một loại thẻ công ty chuyên dùng để trả tiền du lịch, giải trí, ăn uống và
các chi phí liên quan. Thẻ thường dùng để các cơ quan như trường học quản lý
các khoản chi tiêu của nhân viên thường xuyên phải đi công tác và dùng thẻ để
xin chiết khấu với khách sạn và hãng hàng không. Thẻ này cho phép đơn vị
không phải ứng tiền mặt trước cho nhân viên và nhân viên thì có thể sử dụng tín
dụng cá nhân phục vụ mục đích kinh doanh.
• Thẻ mua sắm (Purchasing Card/Procurement Cards)
Thẻ này dùng để mua hàng hoá với các hợp đồng giá trị thấp và có tính chất

+ (Local use only card) là loại thẻ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng
trong nước phát hành, chỉ được dùng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó mà
thôi.
+ (Domestic use only card) là thẻ mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc
tế được phát hành để sử dụng trong nước.
- Thẻ quốc tế (International card)
Là loại thẻ không chỉ dùng tại quốc gia nó được phát hành mà còn dùng
được trên phạm vi quốc tế. Muốn phát hành loại thẻ này thì ngân hàng phát hành
phải là thành viên của Tổ chức phát hành thẻ quốc tế.
Thẻ quốc tế được khách du lịch rất ưa chuộng vì tính an toàn tiện lợi. Do
phạm vi hoạt động dải khắp thế giới nên quy trình hoạt động của thẻ này phức
tạp hơn, việc kiểm soát tín dụng và các yêu cầu thủ tục thanh toán cũng vì vậy
mà rắc rối hơn. Thẻ quốc tế được sự hỗ trợ và quản lý trên toàn thế giới bởi các
tổ chức thẻ lớn như: MasterCard, Visa… hoặc những công ty điều hành lớn như
Amex, JCB… hoạt động trong một hệ thống nhất, đồng bộ.
Thuận lợi chủ yếu của thẻ quốc tế là ở chỗ các ngân hàng nhận được
nhiều sự giúp đỡ về nghiên cứu thị trường, xử lý và nâng cao những yếu tố kỹ
thuật của chủ thẻ từ phía trung tâm thẻ với chi phí thấp hơn nhiều so với sự hoạt
động. Ngoài ra, do được phát hành qua chương trình độc quyền, thẻ được nhiều
người biết đến và dễ dàng được chấp nhận rộng rãi ở hầu hết mọi nơi.
1.1.5 Vai trò của thẻ ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế xã hội
Đã từ lâu, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán được coi là một lãng phí
lớn đối với nền kinh tế quốc gia vì nó luôn đi kèm với các rủi ro về mất mát, chi
phí vận chuyển, kiểm đếm, in ấn, bảo quản… do đó, tiền mặt không được coi là
phương tiện thanh toán ưu việt. Tỉ phần sử dụng tiền mặt trong hoạt động thanh
Đào Thu Trang - Lớp 4031
16
toán được xem như một thước đo đánh giá sự phát triển của nền kinh tế. Đây
chính là tiền đề cho việc ra đời hàng loạt các phương tiện thanh toán phi tiền mặt
như: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc, ngân phiếu thanh toán, thư tín dụng.

quản lý ngoại hối của nhà nước.
• Thực hiện biện pháp “kích cầu” của nhà nước: Sự tiện lợi mà thẻ mang lại
cho người sử dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng… khiến cho ngày càng
có nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi tiêu bằng thẻ. Điều
nàylàm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu, góp phần thực hiện biện
pháp “kích cầu” của nhà nước. Khuyến khích phát hành thanh toán thẻ cũng
là khuyến khích tăng cầu tiêu dùng. Điều này cũng tạo nên một kênh cung
ứng vốn hiệu quả của các ngân hàng thương mại.
• Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu
tư nước ngoài: Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp
cận với một phương tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi
trường thương mại văn minh, hiện đại hơn. Đây cũng là yếu tố thu hút khách
du lịch, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh việc đem lại lợi
ích to lớn cho xã hội, thẻ đựơc sử dụng ngày càng rộng rãi cũng là nhờ những
tiện ích thiết thực mà nó đem lại cho những đối tượng liên quan trực tiếp: chủ
thẻ, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân hàng.
1.2 NGHIỆP VỤ THANH TOÁN THẺ
1.2.1 Các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán thẻ
Trong một giao dịch thanh toán thẻ, thông thường có 5 bên tham gia: Chủ
thẻ (Cardholder); Ngân hàng phát hành thẻ (Card Issuer); Cơ sở chấp nhận thẻ
(Merchant);Ngân hàng thanh toán thẻ (Acquirer) và tổ chức thẻ Quốc tế dưới
các hình thức Hiệp hội (Card Associations) như Visa và MasterCard hay Công ty
độc lập (Independent Companies) như American Express, Diners Club,
Discover…
1.2.1.1. Ngân hàng phát hành (Card Issuer)
Ngân hàng phát hành là ngân hàng được sự cho phép của tổ chức thẻ hoặc
công ty thẻ trao quyền phát hành cho những thẻ mang thương hiệu của tổ chức
Đào Thu Trang - Lớp 4031
18
và công ty mình. Ngân hàng phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ do ngân

gây khó khăn lớn cho sự phát triển của thị trường thẻ tín dụng vì mức
thế chấp cao.
• Tín chấp: Theo hình thức này thì ngân hàng chỉ căn cứ vào nhân thân,
mức thu nhập thường niên của khách hàng để quy định hạn mức tín
dụng. Rủi ro lớn nhất của hợp đồng thẻ là trường hợp khách hàng
không trả được nợ. Tuy nhiên, nếu ngân hàng kiểm soát chặt chẽ được
thu nhập định kỳ của khách hàng và có biện pháp giám sát tốt thì hoàn
toàn có thể hạn chế được rủi ro trên để phát triển thị trường thẻ thông
qua cho vay tín chấp. Hình thức này được quan tâm đến như một thể
thức tự do nhất để phát triển thị trường thẻ.
• Hình thức kết hợp: Đây là sự kết hợp giữa cả hai điều kiện tín chấp và
thế chấp, nó mang lại sự liên kết, mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng
và ngân hàng trong việc thực hiện các dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong
đó bao gồm cả các CSCNT. Hình thức này góp phần hạn chế nhược
điểm và phần nào phát huy ưu điểm cả hai loại phát hành trên.
Thông thường, vào cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được kê chi tiêu trong
đó ghi rõ số tiền đã sử dụng và số tiền phải thanh toán lại cho ngân hàng. Trong
trường hợp khách hàng không còn khả năng thanh toán hết thì số dư nợ còn lại
sẽ được tính lãi như một khoản ngân hàng cho khách hàng vay. Đây cũng là một
khoản thu không nhỏ mang lại cho ngân hàng.
Ngoài ra ngân hàng phát hành thẻ cũng có thể có các khoản thu phụ khác
như: Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời, phí chậm trả, phí cấp lại thẻ mất cắp,
thất lạc…
- Làm tăng lượng vốn huy động cho ngân hàng
Ngân hàng có thể có thêm nguồn vốn huy động từ khoản tiền gửi không
kỳ hạn của các chủ thẻ. Thông thường, để được phát hành thẻ, chủ thẻ sẽ phải ký
quỹ hoặc có số dư tài khoản tiền gửi nhất định theo quy định của ngân hàng (trừ
trường hợp là tín chấp đối với phát hành thẻ tín dụng). Do đó, số dư tiền gửi của
ngân hàng cũng sẽ tăng theo.
Đào Thu Trang - Lớp 4031

Đào Thu Trang - Lớp 4031
21
nhưng với thẻ, khi bị thất lạc hoặc mất cắp chủ thẻ chỉ cần gọi điện báo cho
Ngân hàng phát hành (hoặc các chi nhánh nằm rải rác ở khắp mọi nơi) để vô
hiệu hoá thẻ tránh mọi rủi ro và chủ thẻ sẽ được cấp lại thẻ khác.
Xét dưới góc độ tiện dụng ta thấy rằng thẻ ngân hàng cho phép chủ thẻ
mua hàng hoá, dịch vụ ở bất cứ một cơ sở chấp nhận thẻ, một ngân hàng thanh
toán nào hoặc bất kỳ một điểm đặt máy ATM phục vụ tự động 24/24. Ngoài ra,
với máy ATM, khách hàng có thể tự thực hiện các giao dịch đơn giản như sao
kê tài khoản, chuyển tiền, thanh toán dịch vụ thường xuyên như điện thoại, điện
nước… hoặc sao kê tài khoản ngay tại máy ATM. Các giao dịch thẻ được thực
hiện nhanh hơn nhiều so với giao dịch trực tiếp hoặc giao dịch tiền mặt. Ở Việt
Nam hiện nay, rất nhiều gia đình có con du học ở nước ngoài sử dụng dịch vụ
thẻ quốc tế (tín dụng hoặc ghi nợ) để thanh toán chi phí học tập, sinh hoạt ở
nước ngoài một cách kịp thời nhanh chóng, đồng thời quản lý và kiểm soát hiệu
quả việc chi tiêu của con em thông qua sao kê hàng tháng gửi về cho các gia
đình. Tuy nhiên điều bất lợi chính của việc sử dụng thẻ là nó sẽ không mấy tiện
dụng nếu số điểm tiếp nhận thẻ hoặc số máy ATM không nhiều. Khi đó, khách
hàng chỉ có thể mua hàng hoá và dịch vụ hoặc rút tiền tại một số ít địa điểm nhất
định. Rõ ràng đó sẽ là một hạn chế lớn. Tuy nhiên, việc đó chỉ tồn tại ở một số ít
nước mới bắt đầu tham gia vào thị trường thẻ như Việt Nam.
- Mở rộng năng lực tài chính của khách hàng
Thẻ tín dụng là một dạng cho vay thanh toán nên khách hàng có thể sử dụng
tiền ứng trước để phục vụ nhu cầu thanh toán của mình. Ví dụ, một chủ thẻ cần chi
trả với số tiền là 2 triệu đồng và dự định vào cuối tháng anh ta mới có khoản thu
nhập 2 triệu. Trong trường hợp đó, nhờ vào việc sử dụng thẻ tín dụng, anh ta vẫn có
thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của mình và cuối tháng chỉ việc thanh toán số tiền
2 triệu đồng theo sao kê mà không phải chịu bất cứ khoản lãi nào cho số tiền 2 triệu
đã giao dịch của mình. Thêm vào đó, với sao kê hàng tháng do Ngân hàng gửi đến,
chủ thẻ hoàn toàn có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời

kết: Chấp nhận các đơn vị này vào hệ thống thanh toán thẻ của ngân hàng; Cung
cấp các thiết bị đọc thẻ tự động cho các đơn vị này kèm theo những hướng dẫn
Đào Thu Trang - Lớp 4031
23
sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên cách thức vận hành cùng với dịch
vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian hoạt động; Quản lý và xử lý
những giao dịch thẻ tại những đơn vị này.
Trên thực tế rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là ngân
hàng thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng phát hành, khách hàng của họ là
chủ thẻ còn với tư cách là ngân hàng thanh toán, khách hàng là các đơn vị cung
ứng hàng hoá, dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.
Một số lợi ích của ngân hàng thanh toán thẻ
- Làm tăng lượng vốn huy động cho ngân hàng
Để thuận tiện trong thanh toán, các cơ sở chấp nhận thẻ khi ký hợp đồng
tiếp nhận thẻ thường mở tài khoản tại ngân hàng thanh toán. Sau khi giao dịch
thẻ phát sinh, cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn thanh toán cho ngân hàng và
ngân hàng sẽ căn cứ vào đó để ghi có vào tài khoản tiền gửi của CSCNT. Chính
điều này đã làm tăng số dư tài khoản tiền gửi nói chung và tăng vốn huy động
cho ngân hàng. Ngoài ra, khi đã mở tài khoản tại ngân hàng thì mọi thanh toán
của CSCNT sẽ được thực hiện qua tài khoản này, khi đó số dư tiền gửi sẽ trở
thành một con số đáng kể.
- Tạo nguồn thu cho ngân hàng
+ Chiết khấu thương mại (Merchant Service Fee): Đây là khoản thu phát
sinh trên doanh số thanh toán của các điểm tiếp nhận thẻ. Theo nguyên tắc, tỷ lệ
chiết khấu phụ thuộc vào tình hình thị trường, lưu lượng hàng bán và quy mô
các hoá đơn mua hàng hoá dịch vụ…
+ Phí rút tiền mặt (Cash Advance Fee) : Là khoản phí thu được trên mỗi
giao dịch rút tiền mặt được áp dụng đối với thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ.
+ Phí đại lý thanh toán (Interchange Fee): Với các giao dịch làm đại lý thẻ
của ngân hàng phát hành, ngân hàng đại lý sẽ được hưởng một phần chiết khấu trên

Khi chấp nhận thanh toán các cơ sở sẽ được Ngân hàng cung cấp máy
móc cần thiết cho việc kinh doanh thẻ, do đó không phải mất phí đầu tư. Thêm
vào đó, các cơ sở kinh doanh còn đựơc hưởng các ưu đãi về vốn vay từ phía
Ngân hàng, thiết lập một mối quan hệ rộng rãi mật thiết với nhiều Ngân hàng
khác. Một CSCNT thường được Ngân hàng coi như một thành viên chính thức
để cung ứng thẻ ra thị trường. Đồng thời để quảng cáo cho sản phẩm của mình
nhiều khi các Ngân hàng quảng cáo luôn cho CSCNT
- Xuất khẩu hàng hoá dịch vụ tại chỗ
Hiện nay, phần lớn doanh số thanh toán thẻ ở Việt Nam đều là doanh số
thanh toán của khách nước ngoài. Nó như một biện pháp xuất khẩu tại chỗ và là
Đào Thu Trang - Lớp 4031

Trích đoạn Nguyờn nhõn 6: Mụi trường phỏp lý chưa hoàn thiện Nguyờn nhõn 9: Hệ thống thanh toỏn liờn ngõn hàng chưa đồng bộ và thiếu sự thống nhất Về nghị định thanh toỏn: Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toỏn khụng dựng tiền mặt ra đời từ những năm 1993 căn cứ vào phỏp lệnh Ngõn hàng Đẩy mạnh thương mại điện tử, thỳc đẩy hoạt động thanh toỏn thẻ trờn Internet
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status