Phân tích nội dung, những ưu, nhược điểm và thực tiễn áp dụng một biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế - Pdf 31


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

3

NỘI DUNG

3

1. Tranh chấp quốc tế và hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.

3

1.1. Tranh chấp quốc tế.

3

1.2. Các phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp quốc tế.

4

2. Đàm phán trực tiếp-biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.

5

2.1. Nội dung của biện pháp đàm phán trực tiếp.

6


: Luật quốc gia ;



: Hiệp ước ;



: Công ước ;

HC

: Hiến chương ;

LHQ

: Liên hợp quốc ;

3


Tranh chấp là một hiện tượng phổ biến, tất yếu của đời sống quốc tế, khi các tranh chấp
này xảy ra nếu các bên không có biện pháp giải quyết triệt để thì có thể dẫn đến các tranh
chấp xung đột mới gây thiệt hại lớn cho các bên thậm chí đe dọa tới hòa bình an ninh thế
giới do vậy LQT hiện đại đã xem hòa bình giải quyết TCQT là nghĩa vụ bắt buộc đối với
mọi quốc gia. Hiện nay có nhiều biện pháp để giải quyết hòa bình các TCQT và bài luận
sau xin được phép trình bày một số vấn đề về biện pháp đàm phán trực tiếp.
1. Tranh chấp quốc tế và hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.
1.1. Tranh chấp quốc tế.
a. Khái niệm.

giữa các nước Việt Nam, Trung Quốc, Brunei, Malaysia, Philippin ...
- TCQT đa phương toàn cầu như tranh chấp về giá cả lương thực, thực phẩm, nông sản
giữa 2 nhóm nước phát triển và đang phát triển trong khuôn khổ WTO, ...
* Căn cứ vào tính chất chính trị thì TCQT được chia thành:
- Tranh chấp chính trị là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện chủ quyền quốc gia
đối với biên giới lãnh thổ, dân cư, ... như tranh chấp giữa Pháp và Ba Lan về quốc tịch của
nhạc sĩ Chopin (1801-1849), ...
- Tranh chấp pháp lý là các tranh chấp liên quan tới việc giải thích, viện dẫn, áp dụng
LQT, liên quan tới việc giải thích các sự kiện vi phạm LQT, ... như về việc sử dụng vũ lực
của Mĩ để giải thoát các con tin là nhà ngoại giao ở Đại sứ quán Mĩ tại Iran tháng 4/1980,
Mĩ thì cho rằng đây là hành vi hợp pháp do họ đã sử dụng các biện pháp hòa bình nhưng
không mang lại kết quả còn một số nước lại cho rằng đây là hành vi vi phạm LQT.
Ngoài ra dựa vào nội dung thì TCQT có thể được chia thành tranh chấp về kinh tế
thương mại, về biên giới lãnh thổ, ... dựa vào chủ thể thì TCQT có thể được chia thành
tranh chấp giữa các quốc gia với nhau, tranh chấp giữa các tổ chức quốc tế, ...
1.2. Các phương pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp quốc tế.
a. Các phương pháp bạo lực.
Không phải ngay từ đầu các TCQT trong lịch sử quan hệ quốc tế đã được giải quyết
bằng phương pháp hòa bình. Trước khi HƯ hòa bình Briand-Kellogg (HƯ Pari) 1928 thì
trong quan hệ quốc tế việc sử dụng vũ lực hay chiến tranh vẫn được coi là biện pháp hợp
pháp để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, là phương tiện tự lực nhằm bảo vệ lợi ích
của quốc gia kể cả những lợi ích bất hợp pháp nhưng quốc gia cho rằng phù hợp với LQT,
thậm chí luật gia người Anh L.Oppenheim còn cho rằng “nhìn từ góc độ pháp lý thì
quyền tiến hành chiến tranh là quyền tự nhiên vốn có của mỗi quốc gia”
b. Các phương pháp hòa bình giải quyết TCQT.
Trước đây, giải quyết hòa bình các TCQT không được ghi nhận là một nguyên tắc của
LQT nhưng nó vẫn được các quốc gia sử dụng trong việc giải quyết các mối quan hệ bang
giao như phái sứ thần đàm phán kí các hiệp ước ngừng chiến, trao trả tù binh ...
Hiện nay hòa bình giải quyết các TCQT là một nguyên tắc cơ bản của LQT hiện đại, có
mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc khác như cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ

Như vậy, có thể thấy giải quyết hòa bình các TCQT là nghĩa vụ của mọi quốc gia
nhưng LQT không quy định một giải pháp bắt buộc nào cho việc giải quyết TCQT mà chỉ
nêu lên một số biện pháp thông dụng nhất gồm đàm phán trực tiếp; giải quyết tranh chấp
thông qua bên thứ 3 (môi giới, trung gian, hòa giải, ủy ban điều tra, ủy ban hòa giải);
giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và điều ước khu vực; giải
quyết tranh chấp thông qua cơ quan tài phán quốc tế và dành cho các quốc gia quyền lựa
chọn. Việc lựa chọn biện pháp này, biện pháp kia hay kết hợp giữa các biện pháp là phụ
thuộc vào ý chí của các bên, tính chất của tranh chấp ... tuy nhiên thực tiễn quốc tế đã chỉ
ra rằng đàm phán trực tiếp là biện pháp thường được sử dụng đầu tiên trong quá trình giải
quyết TCQT và hiệu quả hơn cả bởi những ưu điểm mà các biện pháp khác không có
được và điều này cũng tương đối phù hợp với bản chất bình đẳng thỏa thuận của LQT.
6


2.1. Nội dung của biện pháp đàm phán trực tiếp.
Phương thức đàm phán là phương thức được thực hiện thông qua việc đàm phán trực
tiếp giữa các bên tranh chấp mà không có sự hiện diện của người thứ 3 và theo khoa học
LQT thì đàm phán trực tiếp thường được hiểu là sự trao đổi có tính chất đề xuất, thương
lượng, bàn bạc về các vấn đề nảy sinh giữa các bên tranh chấp từ đó tìm ra những giải
pháp phù hợp để giải quyết tranh chấp. Nhìn chung biện pháp đàm phán trực tiếp có một
số nội dung sau:
Về chủ thể tham gia: đàm phán nhằm giải quyết TCQT phải được tiến hành bởi các
chủ thể của LQT, chủ thể của LQG không thể tham gia đàm phán để giải quyết TCQT.
Về luật áp dụng: LQT không quy định cụ thể nhưng mục đích, nội dung, trình tự đàm
phán phải phù hợp với các nguyên tắc của LQT, LQT tôn trọng sự thỏa thuận, quyết định
của các chủ thể với điều kiện thỏa thuận đó phải phù hợp với tinh thần của LQT.
Về tính chất: thì đàm phán trực tiếp là một biện pháp ngoại giao nhằm giải quyết
TCQT dựa trên sự tiếp xúc, trao đổi, thương lượng trực tiếp giữa các bên, là sự nhượng bộ
có hiểu biết lẫn nhau và có thể là một bên tự rút bỏ yêu sách của mình, công nhận đòi hỏi
đúng đắn của bên kia ... nên đòi hỏi các bên tham gia phải có thiện chí, mục đích giải

đưa vụ việc ra Tòa án công lý quốc tế; 1977-1978: đàm phán trực tiếp; 1979-1984: giáo
hoàng tham gia hòa giải; 1984: 2 bên kí HƯ hòa bình và hữu nghị) ...
2.2. Ưu điểm và hạn chế của biện pháp đàm phán trực tiếp.
Một trong những điểm khác biệt căn bản giữa TCQT và tranh chấp có tính quốc tế đó là
trong TCQT sự thể hiện ý chí, vai trò của các bên trong tranh chấp có ý nghĩa rất lớn đối
với quá trình giải quyết tranh chấp, trong biện pháp đàm phán trực tiếp thì vai trò này lại
được thể hiện một cách rõ nét hơn. Đây cũng chính là cơ sở tạo nên những ưu, nhược
điểm của biện pháp này so với các biện pháp khác.
a. Ưu điểm.
So với các biện pháp khác thì đàm phán trực tiếp có một số ưu điểm như:
Thứ nhất, vì đàm phán trực tiếp là sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bên trong tranh chấp,
không có sự xuất hiện của bên thứ 3 nên các bên có quyền tự do ý chí, không phải chịu sự
ràng buộc hay áp lực của bên thứ 3 kể cả cộng đồng quốc tế.
Thứ 2, trong biện pháp đàm phán trực tiếp các bên có thể thể hiện ý chí và nguyện
vọng của mình một cách chính xác, độc lập nên khi đạt được thỏa thuận thì các bên sẽ dễ
dàng tự nguyện thực hiện hơn so với các biện pháp khác như giải quyết thông qua cơ quan
tài phán quốc tế (như tòa án công lý quốc tế, tòa luật biển ...). Ngoài ra thông qua đàm
phán các bên không chỉ giải quyết được các tranh chấp mà còn có thể loại bỏ được sự
nghi kị lẫn nhau, hiểu biết nhau hơn từ đó góp phần củng cố, thúc đẩy quan hệ hợp tác.
Thứ 3, đàm phán trực tiếp chỉ có sự tham gia trực tiếp của các bên nên có thể tiến hành
bất cứ lúc nào mà không bị hạn chế về thời gian, không gian như các biện pháp khác
chẳng hạn nếu các bên giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án công lý quốc tế thì sẽ phụ
thuộc vào thời gian, địa điểm làm việc của tòa ... ưu điểm này sẽ góp phần tiết kiệm thời
gian, chi phí, tạo sự chủ động, thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ 4, đàm phán trực tiếp là sự lựa chọn hợp lý, hiệu quả đối với những nước có vị thế
quốc tế không cao, khẳ năng tham gia tranh tụng quốc tế yếu ... không thể giải quyết
tranh chấp bằng các biện pháp như sử dụng cơ quan tài phán, thông qua tổ chức quốc tế ...
8



Dương. Sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì cách mạng Việt Nam đã chớp thời cơ giành
chính quyền thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc này theo thỏa thuận của
các nước Đồng minh, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng và quân Anh sẽ tiến vào Việt
Nam để giải giáp quân Nhật. Để bảo vệ quyền lợi của mình ở Việt Nam, Pháp đã cấu kết
với Anh và kí Hiệp ước Hoa–Pháp nhằm thay chân Trung Hoa Quốc dân đảng ra miền
9


bắc Việt Nam giải giáp quân Nhật. Để tránh phải đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù Ban
thường vụ Trung ương Đảng đã chủ trương hòa để tiến, đuổi Tưởng trước đánh Pháp sau.
Còn Pháp vì muốn nhanh chóng đưa quân ra Bắc nhằm tiêu diệt chính quyền cách mạng
non trẻ nên cũng muốn đẩy mạnh quá trình thỏa thuận với phía Việt Nam vì vậy cuộc đàm
phán nhằm kí kết Hiệp định sơ bộ đã được khởi động.
* Ngày 6/3/1946 Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được kí kết với sự tham gia của phía Việt
Nam gồm có chủ tịch Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Trường Tam, Hoàng Minh
Giám. Phía Pháp có Jean Sainteny được sự ủy quyền của chính phủ lâm thời Cộng hòa
Pháp, tướng Salan, Léon Pignon. Ngoài ra còn có sự tham gia của các quan sát viên phía
đồng minh là Mĩ, Anh, Trung Quốc và Louis Caput-đại diện Đảng xã hội Pháp.
* Cuộc đàm phán kết thúc vào 16h ngày 6/3/1946 với một số điểm chính, nhưng vấn đề
gây nhiều tranh cãi giữa 2 bên nhất chính là thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam
muốn là một nước “độc lập” còn Pháp chỉ muốn là “tự trị” cuối cùng hai bên đã đi tới
kết quả Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân
đội và tài chính riêng ở trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp.
Về sau chủ tịch Hồ Chí Minh còn có cuộc hội đàm với đô đốc Thierry D ’Argenlieu,
Cao ủy Pháp ở Đông Dương để xúc tiến Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau về
chính thức thực hiện hiệp định. Tuy nhiên cuối cùng Pháp vẫn bội ước, dù vậy sau này
chúng ta vẫn có được những chiến thắng quan trọng trên mặt trận quân sự góp phần tạo
thuận lợi trên bàn đàm phán (chiến thắng Điện Biên Phủ với hiệp định Giơ-ne-vơ 1954;
chiến thắng Mậu Thân 1968 với hiệp định Paris 1973), chứng minh về vị trí quan trọng
của việc giải quyết xung đột chiến tranh ở Việt Nam thông qua phương pháp hòa bình, đó

sang Paris để đàm phán về cách thi hành hiệp định. Với một Nam Kỳ quốc "độc lập" thì
cuộc trưng cầu dân ý tại miền Nam như trong hiệp định đã không còn ý nghĩa. Lúc này
Pháp chia thành hai xu hướng, Sainteny và Leclerc thì chủ trương thì hành hiệp định
nhưng dùng sức ép quân sự buộc ta phải nhân nhượng còn D ’Argenlieu lại chủ trương
bành trướng quân sự biến thành đảo chính. Khi Leclerc, tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương
đề nghị đàm phán thống chế De Gaul đã nói một câu nổi tiéng “Nếu tôi mà đồng ý mấy
thứ nhảm nhí này thì đế quốc Pháp đã tiêu vong lâu rồi. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong
tuyên bố tháng 3 của Pháp về Đông dương” và cuối cùng Pháp đã bội ước hoàn toàn với
lý do Jean Sainteny không có thẩm quyền kí hiệp định và đây cũng mới chỉ là hiệp định sơ
bộ. Như vậy ta có thể thấy ngay từ đầu Pháp đã không có thiện chí khi tham gia đàm phán
và ý định tôn trọng lâu dài hiệp định này.
Trên đây là một số nội dung về biện pháp đàm phán trực tiếp, từ các ưu điểm và hạn
chế trên có thể thấy đây là một biện pháp hiệu quả trong giải quyết TCQT. Tuy nhiên bên
cạnh những ưu điểm nhất định thì biện pháp này cũng có không ít hạn chế. Do vậy để giải
quyết hòa bình các TCQT thì các bên cần nâng cao tinh thần thiện chí hợp tác, lựa chọn
một hoặc kết hợp nhiều biện pháp tùy thuộc vào tính chất của tranh chấp sao cho dung
hòa được lợi ích giữa các bên tránh tình trạng tranh chấp trở nên gay gắt hơn.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tế. NXB.CAND, Hà Nội, 2004 ;
2. Th.s Nguyễn Thị Thu - Th.s Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo trình Luật quốc tế.
NXB.GD, Hà Nội, 2010 ;
3. TS. Trần Văn Thắng – Th.s Lê Mai Anh (đồng chủ biên), Luật Quốc tế Lý luận và thực
tiễn. NXB.GD, Hà Nội, 2001 ;
3. Hiến chương Liên Hợp Quốc;
4. Keo Pheak Kdey, Phương pháp hòa bình trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế,
Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2002. Người hướng dẫn: PGS.TS Lê Minh Thông ;


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status