Tình hình bệnh viêm đường sinh dục và thử nghiêm một số phác đồ điều trị bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang trại chăn nuôi Bùi Huy Hạnh, thuộc xã Tái Sơn – Tứ Kỳ - Hải Dương - Pdf 32

Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Phần I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn giữ một vị rí quan trọng trong
nghành nông nghiệp của Việt Nam. Con lợn được xếp hàng đầu trong số các
vật nuôi, cung cấp phần lớn thực phẩm cho nhân dân và phân bón cho sản
xuất nông nghiệp. Ngày nay chăn nuôi lợn còn có tầm quan trọng đặc biệt nữa
là tăng kim ngạch xuất khẩu, đây cũng là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể
cho nền kinh tế quốc dân. Để cung cấp lợn giống cho nhu cầu chăn nuôi của
các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản là việc
làm cần thiết.
Tuy vậy, một trong những trở ngại lớn nhất của chăn nuôi lợn nái sinh
sản là dịch bệnh xảy ra còn phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi
tập trung trong các trang trại cũng như nuôi tập trung ở gia đình. Đối với lợn
nái, nhất là lợn ngoại được chăn nuôi theo phương thức công nghiệp thì các
bệnh về sinh sản xuất hiện khá nhiều do khả năng thích nghi của đàn lợn nái
ngoại với điều kiện khí hậu nước ta còn kém. Mặt khác, trong quá trình sinh
đẻ, lợn nái dễ bị các loại vi khuẩn như Streptococcus, Staphylococcus,
E.coli…xâm nhập và gây một số bệnh nhiễm trùng sau đẻ như viêm âm đạo,
viêm âm môn,…đặc biệt hay gặp là bệnh viêm tử cung, đây là bệnh ảnh
hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ. Nếu không diều trị kịp thời,
viêm tử cung có thể dẫn tới các bệnh kế phát như: viêm vú, mất sữa, rối loạn
sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc dẫn đến nhiễm trùng huyết và
chết…Vì vậy, các bệnh viêm đường sinh dục, đặc biệt là bệnh viêm tử cung ở
lợn nái ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đàn lợn giống nói riêng, dồng
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
thời ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả toàn nghành chăn nuôi
lợn nói chung.
Để góp phần vào việc phòng và điều trị bệnh viêm tử cung lợn, chúng

clitoridis).
* Tiền đình (Vestibulum vaginae sinus progenitalis), là giới hạn giữa
âm môn và âm đạo. Trong tiền đình có màng trinh, phía trước màng trinh là
âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo. Màng trinh có các sợi đàn hồi ở giữa
và do hai lá niêm mạc gấp thành một nếp. Sau màng trinh có lỗ niệu đạo.
2.1.1.2. Bộ phận sinh dục bên trong gồm: âm đạo, tử cung, buồng trứng và
ống dẫn trứng.
* Âm đạo (Vagina), trước là cổ tử cung, phía sau là tiền đình có màng
trinh (Hymen) che lỗ âm đạo. Âm đạo là một ống tròn để chứa cơ quan sinh
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
dục khi giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình
sinh đẻ.
Cấu tạo âm đạo chia ba lớp:
▪ Lớp liên kết: ở ngoài.
▪ Lớp cơ trơn: cơ dọc ở ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo
liên kết với các cơ ở cổ tử cung.
▪ Lớp niêm mạc: có nhiều tế bào thượng bì, gấp nếp dọc hai bên nhiều hơn ở giữa.
* Tử cung (Uterus): có cấu tạo phù hợp với chức năng phát triển và
dinh dưỡng bào thai. Trứng được thụ tinh ở ống dẫn trứng rồi trở về tử cung
làm tổ, ở đây hợp tử phát triển là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ thông qua
lớp niêm mạc tử cung cung cấp. Tử cung còn có nhiệm vụ đẩy thai ra ngoài
trong quá trình sinh đẻ nhờ vào các lớp cơ.
Tử cung được cấu tạo bởi 3 lớp:
▪ Ngoài cùng là tổ chức liên kết (Perimetrium)
▪ Lớp cơ trơn (Myometrium): giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai
ra ngoài. Nó là lớp cơ trơn khỏe nhất trong cơ thể. Bên trong các cơ trơn có
những sợi liên kết đàn hồi và tĩnh mạch lớn. Các lớp cơ đó đan vào nhau làm
cho tử cung chắc, tính đàn hồi cao.
▪ Lớp niêm mạc tử cung (Endometrium): màu hồng, được phủ lên bằng

lớp nhung mao luôn rung động để đẩy tế bào trứng hay hợp tử xuống tử cung
làm tổ.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Cấu tạo ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo.
Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để tăng diện tích
tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần
rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối
lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo
nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng đến
nơi thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để
nuôi dưỡng trứng, duy trì sự sống và gia tăng khả năng sống của tinh trùng,
tiết các chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung
2.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục lợn cái.
2.1.2.1. Sự thành thục về tính.
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện,
buồng trứng có bao noãn chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử
cung biến đổi theo, đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu
hiệu động dục xuất hiện đối với gia súc như vậy gọi là sự thành thục về tính
và sự thành thục về tính thường đến sớm hơn sự thành thục về thể vóc.
Theo A.A Xuxoep (1985) [1] sự thành thục của gia súc được đặc trưng
bởi những thay đổi bên trong và bên ngoài cơ thể, đặc biệt là sự biến đổi bên
trong của cơ quan sinh dục.
Tuỳ thuộc vào từng loài gia súc khác nhau mà thời gian thành thục về
tính khác nhau. Tuổi thành thục về tính của lợn khoảng 6 tháng, giới hạn dao
động từ 4–8 tháng. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11] ở lợn tuổi
thành thục tính là 6–8 tháng.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A

2,1 trứng / lần động dục / nái.
* Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng đến tuổi thành thục về tính
của lợn cái hậu bị:
Cách ly lợn cái hậu bị (ngoài 5 tháng tuổi) khỏi lợn đực sẽ dẫn đến làm
chậm trễ sự thành thục so với những lợn cái hậu bị cùng độ tuổi được tiếp xúc
với con đực. Theo Paul Hughes (1996) [1], nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với
lợn đực 2 lần/ngày với thời gian từ 15 – 20 phút/lần thì 83% lợn nái (ngoài 90
kg thể trọng) động dục lúc 165 ngày tuổi.
2.1.2.2. Chu kỳ động dục (chu kỳ tính).
Khi gia súc thành thục về tính thì cơ thể con cái đặc biệt là cơ quan sinh
dục có sự biến đổi, đồng thời có rụng trứng, trứng phát triển nhờ quá trình
điều khiển của hocmon thùy trước tuyến yên làm trứng chín và rụng một cách
có chu kỳ, con vật biểu hiện bằng những triệu trứng động dục theo chu kỳ
được gọi là chu kỳ tính (K.Sato và Junichi Mori, 1992).
Chu kỳ tính có sự khác nhau giữa các loài, thời gian kéo dài chu kỳ
giữa các loài cũng có sụ khác nhau. Ở thời gian đầu, do mới có sự thành thục
về tính nên chu kỳ chưa ổn định, phải sau 2 – 3 chu kỳ tiếp sau mới có được
sự ổn định.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], lợn động dục không theo
mùa, chu kỳ sinh dục thường 21 ngày, thời gian dao động từ 18 – 22 ngày.
Nguyễn Văn Thành (2002) [13] cho rằng: chu kỳ động dục của lợn liên
quan chặt chẽ với quá trình điều hòa kích tố trong cơ thể, và chịu sự điều
khiển của hệ thống thần kinh thể dịch.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Chu kỳ động dục là khoảng thời gian giữa 2 lần động dục và nó được
chia làm 4 giai đoạn sau:
a. Giai đoạn trước động dục (preoestrus).
Đây là giai đoạn đầu của chu kỳ sinh dục, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt
động về sinh lý, tính thành thục trong đó sự phát triển của noãn bao thành

vật trở lên bình thường, chuyển sang giai đoạn yên tĩnh.
d. Giai đoạn yên tĩnh (dioestrus).
Là giai đoạn dài nhất chiếm phần lớn chu kỳ động dục, bắt đầu từ ngày
thứ 4 sau khi trứng rụng và không được thụ tinh, kết thúc sau khi thể vàng
tiêu hủy không còn biểu hiện gì về hành vi sinh dục. Đây là giai đoạn chuyển
giao giữa hai lần động dục. Trong quá trình động dục, nếu trứng được thụ tinh
thì thể vàng tồn tại suốt 2/3 thời gian mang thai và tiết ra Progesteron có tác
dụng an thai, ức chế quá trình rụng trứng, kích thích tuyến vú phát triển. Thời
kỳ yên tĩnh lúc này chính là giai đoạn mang thai và thời kỳ sau đẻ. Ở giai
đoạn nuôi con dưới tác dụng của Prolactin, Oxytoxin, Progesteron…làm cho
quá trình rụng trứng bị đình trệ, hiện tượng động dục không xảy ra. Thường
sau khi cai sữa thì chu kỳ tính dần được khôi phục và xuất hiện trở lại sau cai
sữa 4 – 8 ngày.
Nếu trong quá trình động dục, trứng rụng không được thụ tinh thì thể
vàng chỉ tồn tại được 3 – 10 ngày, sau đó teo đi làm ngừng tiết Progesteron.
Do đó trứng tiếp tục chín và rụng, xuất hiện chu kỳ tính tiếp theo.
Các yếu tố ảnh hưởng tới chu kỳ động dục:
* Yếu tố ngoại cảnh:
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng, mùa vụ, thức ăn…đều ảnh hưởng rõ rệt
đến chu kỳ tính của gia súc cái.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], ở lợn chu kỳ sinh dục
trong suốt cả năm nhưng thường khi khí hậu ấm áp thì nó xuất hiện rõ ràng và
đầy đủ các đặc điểm hơn so với điều kiện khí hậu lạnh. Trong điều kiện quá
giá lạnh thì chu kỳ sinh dục có thể ngừng lại hoàn toàn.
Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], trong điều kiện thức ăn thiếu
protein, vitamin, khoáng, chu kỳ tính kéo dài, bao noãn thành thục chậm,
thậm chí có bao noãn quắt lại.
* Yếu tố thần kinh – thể dịch:

trứng được thụ tinh đến khi hình thành nang phôi – túi phôi.
* Thời kỳ thứ hai – thời kỳ phôi thai: Là thời kỳ hình thành nhau thai, hình
thành các tế bào và các cơ quan hệ thống của cơ thể. Ở gia súc lớn từ ngày thứ 11 – 40.
* Thời kỳ thứ ba – thời kỳ bào thai: Là thời kỳ cuối phôi thai cho đến
khi sinh đẻ. Là giai đoạn phân hóa những kết cấu cực tiểu của tế bào và cơ
quan, là thời kỳ bào thai phát triển nhanh.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
4. Sự điều hòa thần khinh – thể dịch ở thời kỳ mang thai.
Điều hòa sự phát triển của bào thai và đảm bảo sự thống nhất trong các
hoạt động chức năng giữa cơ thể mẹ và bào thai là một quá trình phức tạp do
sự điều tiết thần kinh – thể dịch.
Điều tiết thần kinh: bắt đầu từ lúc thụ thai thì trong vỏ não xuất hiện
vùng hưng phấn trội để tiếp nhận những biến đổi hóa học và cơ học từ các
điểm thụ cảm ở tử cung, do đó đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sự
phát triển của phôi thai như: niêm mạc tử cung phát triển, mạch máu đến
nhiều, tiết dịch tăng. Hưng phấn tăng cường mạnh nhất ở tháng thứ hai, là
một trong các yếu tố dễ gây sẩy thai ở thời điểm này.
Điều tiết thể dịch: có sự tham gia tích cực của hệ nội tiết. Progesteron là
hocmon an thai, duy trì quá trình mang thai, được sản sinh ở thể vàng và nhau
thai. Ở lợn Progesteron chủ yếu do thể vàng cung cấp, vai trò của nhau thai là
thứ yếu (Nguyễn Xuân Tịnh và cộng sự, 1996, [18] ).
5. Những biến đổi sinh lý chủ yếu khi có thai.
a. Sự biến đổi toàn thân của cơ thể mẹ khi có thai:
Khi gia súc có thai, kích tố của hoàng thể và nhau thai làm thay đổi cơ
năng hoạt động một số tuyến nội tiết khác. Vì vậy hiện tượng ăn uống, trạng
thái dinh dưỡng, quá trình trao đổi chất…của con mẹ được nâng cao cho nên
thời kỳ đầu gia súc có thai thường béo hơn khi chưa có thai.
Theo Vũ Duy Giảng và cộng sự (1999) [9], trong thời kỳ có chửa, lợn
nái tăng từ 15 – 25 kg (không kể các sản phẩm thai, trong đó khoảng 3 – 4 kg

mặt ngoài buồng trứng xuất hiện thể vàng.
* Tử cung:
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Khi gia súc có thai, toàn bộ tử cung xuất hiện những thay đổi về cấu
tạo, tính chất, vị trí, khối lượng, thể tích…dây chằng tử cung dài ra nên đầu
mút sừng tử cung và buồng trứng được đưa về phía trước và phía dưới, xa vị
trí cũ. Hệ tuần hoàn ở cơ quan sinh dục được tăng cường, lượng máu đến
cung cấp cho niêm mạc tử cung rất nhiều nên niêm mạc được phát triển và
dày lên. Các tuyến tử cung cũng được phát triển mạnh mạnh và tăng cường
tiết niêm dịch. Niêm mạc tử cung hình thành nhau mẹ.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], ở lợn mức độ phát triển
và tăng sinh của tử cung phụ thuộc vào số lượng của bào thai và thường là
phát triển ở cả hai sừng. Cuối thời kỳ có thai, khối lượng tử cung ( không kể
thai) nặng tới 2,5 – 6kg, còn tử cung bình thường không có thai nặng 0,2 –
0,5kg.
Vũ Duy Giảng và cộng sự (2002) [5], tử cung bình thường chỉ nặng 0,2
– 0,3kg, khi có thai tử cung lợn mẹ nặng tới 3 – 4kg.
c. Những thay đổi hocmon sinh dục.
Bào thai được phát triển bình thường dưới tác dụng điều hòa của các
hocmon buồng trứng, nhau thai và tuyến yên.
* Nửa thời kỳ đầu có thai: Nhau thai được hình thành và phát triển, tiết
ra Prolan B. Chất này có tính chất giống như LH của thùy trước tuyến yên.
Nó kích thích thể vàng phát triển và tăng tiết Progesteron, làm cho niêm mạc
tử cung phát triển và dày thêm. Nhau thai ngoài việc tiết ra Prolan B, còn tiết
ra Progesteron và Folliculin.
* Nửa thời kỳ sau có thai: Hàm lượng Progesteron giảm dần trong máu.
Ngược lại Follicilin tăng dần đến mức tối đa.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A

b. Triệu chứng rặn đẻ.
Khi đẻ gia súc mẹ phải dùng sức đẩy thai cùng với các khí quan trong
đường sinh dục để đưa thai ra ngoài. Sức rặn căn bản là do sự co bóp của tử
cung, sự co bóp này bắt đầu từ sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung,
kết quả làm mở rộng cổ tử cung.
Nhưng chỉ nhờ vào sức co bóp của tử cung thì không đủ đẩy thai ra
ngoài mà phải nhờ vào sự co bóp của cơ ở bụng, hoành cách mô và toàn thân.
Đó mới là “ rặn” đẻ, mặt khác còn dựa vào sự co bóp của cơ âm đạo, chậu
hông, sức. Khi có triệu chứng đẻ thì tử cung bắt đầu co bóp, ban đầu yếu sau
mạnh dần.
4. Quá trình sinh đẻ.
Quá trình sinh đẻ của gia súc cái do sự co bóp của tử cung, cơ thành
bụng, sức rặn toàn thân, thai, màng nhau thai cùng với nước thai được tống ra
ngoài. Quá trình sinh đẻ được chia ra làm 3 thời kỳ:
a. Thời kỳ mở cổ tử cung.
Thời kỳ này bắt đầu từ khi tử cung có cơn co bóp đầu tiên đến khi cổ tử
cung mở ra hoàn toàn. Tùy từng giống mà biểu hiện bên ngoài không giống
nhau. Ở lợn thường hay đứng nằm không yên, đi đi lại lại trong chuồng và có
triệu chứng cắn ổ.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Động lực thúc đẩy cho quá trình sinh đẻ là sự co bóp của cơ quan sinh
dục được tiến hành từ mút sừng tử cung đến thân tử cung, đến cổ tử cung và
đến âm đạo, thời gian co bóp có những khoảng cách nên gọi là những cơn rặn.
Con vật xuất hiện cơn rặn đầu tiên trong thời kỳ 1 nhưng nói chung cơn
rặn này yếu về cường độ, thời gian cơn rặn ngắn, thời gian nghỉ giữa hai cơn
rặn lại dài từ 20 – 30 phút, mỗi cơn rặn thường từ 2 – 3 giây. Nếu con mẹ rặn
liên tục thì mạch máu của bào thai chèn ép, tuần hoàn đình trệ, dưỡng khí
cung cấp cho thai thiếu, thai ra chậm có thể bị ngạt.
Cường độ co bóp chuyển từ sừng tử cung xuống thân tử cung, đến cổ tử

thường thai lợn ra dễ dàng.
c. Thời kỳ sổ nhau (hay gọi là bong nhau).
Sau khi thai lọt ra khỏi đường sinh dục của gia súc mẹ một thời gian,
con mẹ trở lên yên tĩnh, nhưng tử cung vẫn co bóp và tiếp tục những cơn rặn,
mỗi lần co bóp từ 1,5 – 2 phút, thời gian giữa hai lần co bóp là 2 phút, nhưng
cường độ lúc này yếu hơn.
Sau khi sổ thai khoảng 2 – 3h tử cung co nhỏ lại, thành tử cung dày,
trên bề mặt có nhiều nếp nhăn, bên trong tử cung có nhiều núm nhau. Cơn rặn
lúc này của gia súc cái chủ yếu là đưa nhau thai ra ngoài.
Trong thời gian này tuần hoàn của núm nhau mẹ và núm nhau con đã
giảm nên nhau thai có thể tách ra được. Các nhung mao teo lại, tách núm
nhau mẹ ra khỏi nhau thai. Trong thời gian này tử cung tiếp tục co bóp và thu
nhỏ lại dần thể tích, nhưng màng niệu và màng nhung mao thì không co lại
được nên tử cung đẩy ra ngoài.
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
Trong quá trình đẩy màng nhau thai ra ngoài, do đặc tính của tử cung
co bóp từ mút sừng tử cung tới thân tử cung, nên màng nhau thai bong ra sẽ
được lộn trái, phần ở mút sừng tử cung ra trước, sau đó bong dần xuống sừng
tử cung, thân tử cung và ra ngoài.
Thời gian bong nhau thai của gia súc có khác nhau do đặc điểm cấu tạo
của núm nhau con và núm nhau mẹ trên niêm mạc tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002) [11], lợn sau khi thai ra hết
toàn bộ, khoảng 10 – 50 phút nhau thai mới ra. Nhau thai của lợn ra chia
thành hai đống, mỗi đống gồm nhau thai của tất cả các thai chứa trong một
sừng tử cung.
Trong sừng tử cung lợn có ít thai thì nhau thai không dính lại như vậy,
mà ra từng cái một, thai sau có thể đẩy nhau thai của thai trước ra. Nếu trong
sừng tử cung lợn có xen kẽ nhiều thai bình thường và thai bị chết khô thì nhau
thai cũng ra thành nhiều đống. Thường những thai chết khô trong sừng tử

biệt là các chất có hoạt tính sinh lý như histamin, serotonin, axetincholin có
tác dụng làm giãn mạch và tăng tính thấm thành mạch gây đau.
2.2.2.4. Tăng sinh mô bào.
Là hiện tượng tăng lên về số lượng các tế bào trong ổ viêm, các tế bào
này có thể từ trong máu tới hoặc các tế bào thại chỗ sản sinh phát triển ra.
Trong quá trình viêm, giai đoạn đầu chủ yếu tăng sinh bạch cầu đa nhân trung
tính. Sự tăng sinh và phát triển của các loại tế bào phụ thuộc vào mức đọ tổn
thương của ổ viêm cũng như tình trạng của cơ thể (Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị
Ngọc Diệp, 1997 [10]).
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
2.2.2.5. Các tế bào viêm.
Các tế bào tăng sinh trong ổ viêm được gọi chung là các tế bào viêm,
bao gồm: bạch cầu đa nhân trung tính, bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm,
bạch cầu đơn nhân lớn. Chúng có chức năng thực bào, ẩm bào hay tạo ra
những kích thích tại các ổ viêm và giữ vai trò quan trọng giúp cơ thể chống
lại sự xâm nhập của các tác nhân lạ từ môi trường.
2.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU BỆNH VIÊM ĐƯỜNG SINH DỤC
Ở LỢN NÁI.
Trên thế giới vấn đề bệnh sinh sản ở gia súc đã và đang được nghiên
cứu một cách toàn diện. Hàng năm các chương trình đào tạo của quốc tế về
sinh sản gia súc thường xuyên được tổ chức tại Trường Đại học Khoa học
Nông nghiệp Uppsala (Thụy Điển), Trung tâm khoa học Quốc tế về Nông
nghiệp Cairo (Ai Cập). Trong nội dung của những khóa học đào tạo này, vấn
đề phương pháp chẩn đoán, phát hiên và điều trị các bệnh sinh sản luôn là nội
dung chính.
Tuy nhiên cho đến nay những tư liệu nghiên cứu về bệnh sản khoa ở
lợn còn rất ít. Và trong những tư liệu nghiên cứu đó, cũng mới chỉ tập trung
vào nghiên cứu bệnh viêm tử cung ở lợn.
2.3.1. Thế giới.

tượng rối loạn sinh sản, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của gia súc
cái sinh sản.
Theo Nguyễn Văn Thành (2002) [13], viêm tử cung là một hội chứng
thường xuất hiện trên lợn nái sau khi sinh. Lợn nái viêm tử cung sẽ bị tổn
Trường ĐHNN – Hà Nội Khoa Thú Y
Báo cáo tốt nghiệp Nguyễn Thị Huyền – TY50A
thương lớp niêm mạc. Từ đó gây ảnh hưởng sự tiết Prostagladin F

và làm
xáo trộn chu kỳ động dục làm tăng tình trạng chậm sinh và vô sinh. Trong đó,
biểu hiện chậm động dục khi xảy ra sẽ làm giảm sức sinh sản của lợn nái,
giảm số vòng quay lứa đẻ trong năm. Ngoài ra, phải tốn chi phí thuốc điều trị,
phải loại thải sớm lợn nái do chậm động dục làm giảm hiệu quả kinh tế của
trại chăn nuôi.
Lê Xuân Cương (1986) [5], lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên
nhân. Trong đó, tổn thương bệnh lý sinh dục tỷ lệ đáng kể. Cùng với nhận
định trên, Lê Minh Chí, Nguyễn Như Pho (1984, 1992) cho rằng: khi lợn nái
đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa. Nhưng sau đó thì niêm mạc
đường sinh dục có thể bị tổn thương gây viêm tử cung.
Nguyễn Xuân Bình (2005) [4], bệnh viêm tử cung xảy ra ở những thời gian
khác nhau. Nhưng bệnh xảy ra nhiều nhất vào thời gian sau khi đẻ 1 – 10 ngày.
Viêm tử cung là một trong nhiều tổn thương đường sinh dục trên lợn
nái sau khi sinh. Khi có dịch tiết và dịch lẫn mủ chính là biểu biện của viêm
tử cung (Nguyễn Văn Thành, 2002 [13])
Cũng theo Nguyễn Văn Thành (2002) [13], có nhiều nguyên nhân gây
viêm tử cung như: dinh dưỡng, tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe chăm sóc,
quản lý, vệ sinh, tiểu khí hậu chuồng nuôi…Nhưng nguyên nhân chính luôn
hiện trong tất cả các trường hợp là do vi sinh vật, nguyên nhân khác sẽ làm
giảm sức đề kháng của cơ thể hoặc tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập và
phát triển để gây nên các triệu chứng.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status