Những vấn đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và Quá trình và các bước để cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước - Pdf 32

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng Thương mại Nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng lớn, vốn tự có quá
thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế giới, tình trạng này đang làm hạn
chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng.
Vấn đề cổ phần hoá ngân hàng Thương mại Nhà nước đặt ra trong giai đoạn này là phù hợp với
tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng để hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc cổ phần hoá
một ngân hàng Thương mại Nhà nước không đơn thuần như việc cổ phần hóa một doanh nghiệp
nhà nước, nhưng cũng không phải là vấn đề quá khó khăn không thể không thực hiện được. Do
đó, quan trọng hiện nay là xác định được mục tiêu cổ phần hóa, xác định những điều kiện cần và
đủ để giải quyết những vấn đề trong quá trình cổ phần hóa và phải đảm bảo được một ngân hàng
sau khi cổ phần hóa phải đáp ứng được các chuẩn mực Hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh
tranh được với các ngân hàng trong nước và trên thế giới.
Hoạt động ngân hàng, trong đó ngân hàng Thương mại Nhà nước với vai trò chủ đạo trong những
năm qua đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đã triển
khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của
đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa
phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự
đóng vai trò chủ đạo.
Việc cổ phần hóa ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng, củng cố và
cơ cấu lại các ngân hàng Thương mại theo hướng tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục những
tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới trong những năm tới.
Do yêu cầu của CNH-HĐH đất nước cần phải có một khối lượng vốn, vì vậy cần phải có ngân
hàng Thương mại đủ tiềm lực tài chính để thực hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả.
Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cổ phần hóa ngân hàng Thương mại Nhà nước là rất cần thiết.
Quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chuẩn bị hội nhập vào thị trường tài chính
quốc tế với việc tự do hóa tài chính đã làm cho môi trường cạnh tranh gay gắt hơn, đầy rủi ro hơn.
Bối cảnh này đã đặt ra cho ngành ngân hàng cần thiết phải cổ phần hóa ngân hàng Thương mại
Nhà nước. Với những yêu cầu hết sức cần thiết và bức xúc như đã nêu trên, đòi hỏi trong hoạt
động của ngân hàng Việt Nam phải có một ngân hàng với quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh

này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa.
Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ
trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh
nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục
tiêu cổ phần hóa đề ra.
Cơ cấu vốn điều lệ: Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau:
nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh
nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp.
Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và
ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa
được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%).
Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước.
Cơ cấu cổ đông: Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm
29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước
nắm 46,3% cổ phần.
Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng
cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có
tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ
phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả,
nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
Phân tích một số bài viết nghiên cứu về quá trình cổ phần hóa trên báo chí, chẳng hạn bài “Cổ
phần hóa - quỹ đạo nào để bảo toàn, phát triển thị trường vốn?” đăng trên báo Tài chính; qua
những thông tin từ Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, có thể nhận thấy việc đánh giá về hiệu quả
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng
ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm
dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh
nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã

doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập
trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong
cạnh tranh.
b. Từ những sự khác biệt đó cho thấy:
Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một trong những giải pháp quan
trọng nhằm giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các
doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế. Tình hình đó không giống với yêu cầu có tính quy luật là cổ phần hóa doanh
nghiệp là một bước tiến của quá trình xã hội hóa, tuân theo quy luật khách quan: quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối tượng cổ phần hóa ở nước ta khác hẳn với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong nền
kinh tế thị trường phát triển cao. Ở nước ta, một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ
phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu cả về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế
quản lý, tức là, chưa hẳn là một tổ chức hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị
trường.
Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế, vẫn dựa trên tư duy cũ. Vì vậy, từ
khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa
đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn
nhiều bất cập như:
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản
nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai
đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do
một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp
giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau
khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình
trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.
Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày 31-12-2005, dư nợ cho vay
đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất
nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin

nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa
trên quan điểm tiết kiệm ngân sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho
những yếu kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả
ngân sách nhà nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ có mức thu nhập bình quân đầu
người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11% trong suốt
10 năm liền, tuy lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách.
Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn
vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi
điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh
nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn
đề nhân sự khác… sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn
trước, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải tính tới những yêu cầu đặt ra khi Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của WTO để sau khi cổ phần hóa thì các doanh nghiệp có thể tồn
tại và phát triển. Tác động của việc gia nhập WTO tốt hay xấu đối với doanh nghiệp đã cổ phần
hóa hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và định hướng quy trình cổ phần hóa. Ở đây xin nêu lên
hai vấn đề quan trọng:
Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền với
trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại
diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà nước
chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay.
Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh.
Trang 4
Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị
công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò và phạm
vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ).

PHẦN II: QUÁ TRÌNH VÀ CÁC BƯỚC ĐỂ CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHÀ NƯỚC:
1. Quá trình cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước:

Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ khen thưởng,
Quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).
Khi cổ phần hóa toàn bộ tập đoàn, tổng Ngân hàng thương mại nhà nước thì giá trị vốn nhà nước
là giá trị thực tế vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, tổng Ngân hàng thương mại nhà nước.
Trường hợp cổ phần hóa Ngân hàng mẹ trong tổ hợp Ngân hàng mẹ – Ngân hàng con thì giá trị
vốn nhà nước được xác định tại tập đoàn, Ngân hàng mẹ.
Đối với các Tổ chức tài chính, Tín dụng khi xác định giá trị Doanh nghiệp theo phương pháp tài
sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản
công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn
và giá trị sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định.
Phương pháp dòng tiền chiết khấu:
Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại Ngân hàng thương mại nhà nước được xác định theo phương
pháp dòng tiền chiết khấu dựa trên khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại trong tương lai.
Trang 5


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status