sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất trong việc quản lý các dự án xây dựn - Pdf 33

Chương I Trang 1

CHƢƠNG I
MỞ ĐẦU

Chương I Trang 2
CHƢƠNG I
MỞ ĐẦU

1.1 Giới thiệu:
Việc hoạch định tiến độ dự án xây dựng là một trong những bước cơ bản của
việc quản lý dự án. Có thể nói rằng tất cả dự án xây dựng đều đòi hỏi phải có hoạch
định. Hoạch định là một trong những chức năng chính của quản lý, nghĩa là nhà

của dự án. Trong bất cứ dự án xây dựng nào cũng bao gồm các cơng tác hoạch định
chính như sau:
3 CÔNG TÁC HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
Tiến độ Nguồn lực
Chi phí

Hình 1.2 Ba cơng tác hoạch định chính của dự án

Như vậy, cùng với hoạch định chi phí và hoạch định nguồn lực, việc hoạch định
thời gian dự án là cơng việc khó khăn và cần làm trước tiên cho bất cứ nhà quản lý
nào. Đặc biệt đối với những dự án có các cơng tác lặp lại (sẽ được định nghĩa trong
phần sau), việc hoạch định chúng sẽ khó khăn hơn do đặc thù của những dự án loại
này khi có nhiều ràng buộc được xem xét cùng lúc. Hơn nữa, việc hoạch định
thường liên quan đến nhiều yếu tố rủi ro, khơng chắc chắn (một bản chất cố hữu của
bất cứ dự án xây dựng nào) đòi hỏi nhà quản lý phải có một kiến thức sâu rộng, am
tường về phạm vi cơng việc, mức độ phức tạp của dự án… và một ít kinh nghiệm
trong vấn đề này.
Trong điều kiện ngày nay, nếu những yếu tố mức độ cạnh tranh và độ phức tạp
của các khu vực được xem xét kết hợp với tính độc đáo của những dự án xây dựng,
việc lên kế hoạch và hoạch định trở thành một thủ tục quan trọng và cần thiết cho sự
thành cơng của dự án khi mà mục tiêu của dự án và ngân sách cho phép là mối quan
tâm hàng đầu.

1.2 Lý do hình thành đề tài:
Việc hoạch định tiến độ dự án là một trong những bước cơ bản của việc quản lý
dự án. Nó là cách thức để xác định thời gian hồn thành dự án một cách chính xác,
kiểm tra tiến độ thực hiện dự án sau này cũng như việc sử dụng nguồn lực một cách
hiệu quả nhất trong việc quản lý các dự án xây dựng. Trong tình hình phát triển
Chương I Trang 4
mạnh mẽ của ngành xây dựng ở nước ta, những công trình có quy mô càng lớn cả

Chương I Trang 5
tương quan với nhau. Trong đó mô hình mới dựa trên nền tảng mô phỏng - mô hình
phân tích rủi ro việc hoạch định tương quan – để đánh giá sơ đồ hoạch định tuyến
tính công việc xây dựng dưới sự xem xét yếu tố không chắc chắn khi thời gian công
việc và nhân tố rủi ro là tương quan với nhau.

1.3 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chính của luận văn này nghiên cứu này là tập trung vào 2 vấn đề sau:
1.3.1 Nghiên cứu hoạch định tiến độ dự án xây dựng có công tác lặp lại
dưới sự ràng buộc của nguồn lực trên cơ sở xem xét ràng buộc về mặt kỹ
thuật (tính logic), tính liên tục của tổ đội và tính có sẵn của tổ đội trên công
trường. Không như những phương pháp hoạch định truyền thống (CPM,
PERT) chỉ quan tâm đến thời gian hoàn thành dự án mà không quan tâm hay
ít quan tâm đến vấn đề nhân lực. Phương pháp đề xuất này tập trung vào vấn
đề nguồn lực. Nói cách khác, nguồn lực sẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong
việc hoạch định cho các dự án loại này. Bên cạnh đó, một khái niệm mới
cũng được nêu ra và được áp dụng vào thuật toán đó là hoạch định dƣới sự
ràng buộc của nguồn lực – phƣơng pháp hệ thống kéo sẽ được trình bày
chi tiết trong phần sau.
1.3.2 Nghiên cứu hoạch định tiến độ dự án xây dựng có xem xét đến yếu tố
rủi ro. Rủi ro đã từ lâu được nhận diện luôn luôn xuất hiện trong các dự án
xây dựng (rủi ro cũng được hiểu là thuộc về bản chất cố hữu của dự án xây
dựng). Đây là một phương pháp mới kết hợp được yếu tố rủi ro và mối tương
quan của những nhân tố rủi ro vào việc hoạch định dự án dạng lặp lại. Trên
cơ sở những vấn đề đã được giới thiệu ở trên, các yếu tố chính sau đây sẽ lần
lượt được xem xét:
 Nghiên cứu sơ đồ mạng dự án xây dựng và sơ đồ hoạch định tuyến tính
dưới sự tác động của các yếu tố rủi ro (bên cạnh các yếu tố khác như tính
liên tục của tổ đội, tính có sẵn của tổ đội và các yếu tố về kỹ thuật).
 Mối tương quan của các công tác với cùng một yếu tố rủi ro cũng như tìm

hoạch định tốt hơn, lường trước những tình huống rủi ro có thể xảy ra trong tương
lai tránh hay hạn chế nguy cơ kéo dài thời gian hoàn thành dự án cũng như có kế
hoạch đáp ứng những rủi ro đó.

Chương I Trang 7
1.5 Phạm vi nghiên cứu:
Như đã trình bày luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu hoạch định cho các dự án
xây dựng có công tác lặp lại. Một phương pháp mới sẽ được đề xuất trong việc
hoạch định các dự án loại này. Nghiên cứu tập trung xem xét vấn đề nguồn lực tác
động như thế nào đến kết quả hoạch định nhằm làm cho kết quả hoạch định sau
cùng phản ánh đúng hơn so với thực tế.
Bên cạnh sẽ được tiến hành nghiên cứu rủi ro trong các dự án có tính chất lặp lại
dạng tuyến tính (trường hợp nghiên cứu đề xuất cho các công trình xây dựng tuyến
đường cao tốc) trên cơ sở mô hình hoá những tác động của các yếu tô rủi ro kết hợp
với sự hỗ trở của bảng tính Excel, phần mềm Crystal ball và thuật toán hay mô hình
hoạch định đã đề xuất. Sau đó, đề tài sẽ giới thiệu một ví dụ áp dụng tiêu biểu và
cách áp dụng MHĐX trong dự án cụ thể nhằm giúp cho những người quan tâm có
thể dễ dàng áp dụng cho các dự án tương tự.
Tóm lại, các giai đoạn chính trong quá trình nghiên cứu rủi ro được thể hiện theo
sơ đồ sau:


rủi ro vào trong quá trình hoạch định tiến độ.
Chương II Trang 9 CHƢƠNG II
TỔNG QUAN

[1]; Oberlender 2000 [2]). Trong một CPM điển hình, tổng thời gian của một dự án
đang tiếp diễn được xác định dựa vào giả thuyết những công tác tương lai sẽ tiến
triển như hoạch định bất kể kết quả hoàn thành trong quá khứ. Ví dụ tại thời điểm
dự đoán, ngày hoàn thành thật sự của công tác đã kết thúc và phần trăm hoàn thành
của công tác đang tiếp diễn được cập nhật vào trong sơ đồ mạng cập nhật. Sau đó,
ngày bắt đầu và kết thúc của những công tác còn lại được tính toán một cách xác
định tương ứng với mối quan hệ phụ thuộc và thời gian ước đoán nguyên gốc của
từng công tác. Những thiếu sót này đã được phê phán từ những năm 60 (Cottrell
1999 [3]; Lu và AbouRizk 2000 [4]).
Chương II Trang 11
Những dự án nhiều đơn vị có thể được hoạch định sử dụng kỹ thuật CPM đã
được chấp thuận phổ biến nhưng việc sử dụng liên tục nguồn lực xuyên qua những
đơn vị (units) lặp lại không thể được đảm bảo khi sơ đồ mạng CPM này được sử
dụng. Những thiếu sót này được minh họa bằng một ví dụ sau đây.
Hình 2.1 là một sơ đồ mạng CPM được chuẩn bị cho một dự án bao gồm 3
đơn vị lặp lại. Đường liền nét liên kết những công tác trong mỗi đơn vị và liên kết
những công tác tương tự nhau từ đơn vị này đến đơn vị kia thể hiện ràng buộc mối
quan hệ kỹ thuật trong sơ đồ mạng. Ví dụ, công tác B1, C1 và A2 không thể bắt đầu
cho đến khi công tác A1 kết thúc. Đường đứt nét liên kết công tác tương tự nhau từ
đơn vị này đến đơn vị kia thể hiện ràng buộc tính có sẵn của nguồn lực. Ví dụ, công
tác A2 không thế bắt đầu cho đến khi tổ đội mộc từ công tác A1 đã sẵn sàng.
Chú ý rằng đơn vị 1 và 3 có 5 công tác (A, B, C, D và E) nhưng đơn vị 2
không có công tác B. Đơn vị 2 cũng khác biệt đó là thời gian của từng công tác
riêng biệt không giống như trong đơn vị 1 và 3. Những khác biệt này phản ánh
những khối lượng công việc khác nhau cần thiết để hoàn thành những công tác này
trong các đơn vị. Những khối lượng khác biệt này có thể do tính chủ quan người
quản lý dự án chia ra các đơn vị hay do đặc thù của tính kỹ thuật (Ví dụ: các đơn vị
của các nhà cao tầng thường được chia mỗi đơn vị là một tầng nhà).
Giải pháp trong hình 2.1 dẫn đến kết quả thời gian dự án là 18 ngày và
đường găng bao gồm công tác A1, C1, C2, D3 và E3. Một cách điển hình, mỗi đơn

dụng thời gian dự trữ của chúng. Ví dụ, thời gian dự trữ tổng cộng một ngày của
công tác D1 được sử dụng và D1 có thể hoạch định lại để bắt đầu vào ngày thứ 8 và
kết thúc vào ngày thứ 10. Trong những dự án lớn với những công tác lặp lại, việc
phân tích từng công tác đã hoàn thành và sửa chữa hay hiệu chỉnh sơ đồ mạng CPM
được yêu cầu để đảm bảo tính liên tục của nguồn lực, một quá trình như thế là cồng
kềnh và đầy khả năng lỗi có thể xảy ra.
Có thể kết luận từ hình 2.1 rằng sơ đồ mạng CPM cho những dự án với
những đơn vị lặp lại có dáng vẻ bậc thang với mỗi bậc là một sơ đồ mạng phụ bao
gồm những công tác và mối quan hệ phụ thuộc cho một đơn vị. Bởi vì đồ thị CPM
thể hiện tất cả những mối liên kết giữa những công tác tương tự nhau trong những
đơn vị liên tiếp và số lượng của liên kết, như thế số nút sẽ lớn và sơ đồ mạng sẽ
xuất hiện nhiều phức tạp không cần thiết.
Chương II Trang 13
A1
3
B1
1
C1
4
D1
2
E1
1
A2
2
C2
3
D2
5
E2

TF=4
TF=2
TF=0
TF=0 TF=1
TF=0
TF=0
TF=1 TF=6
TF=6
TF=3
TF=1
TF=0 TF=0
0
0
2
2
0
5
0
1
6
5
1
4
0
1
0
0
0
ACT
Dur

tiếp theo (Mattila và Abraham 1998) [5]. Những công tác này theo một trình tự
logic và kỹ thuật được ràng buộc trình tự và chịu một vài ràng buộc thời gian và
khoảng cách ấn định bởi những lý do bên trong (như kỹ thuật và quản lý) hoặc bên
ngoài mà vẫn duy trì trong suốt toàn bộ đời sống dự án.
Trong suốt những thập niên vừa qua nhiều thuật ngữ khác nhau đã được sử dụng
để miêu tả những dự án như thế. Phổ biến nhất giữa những thuật ngữ đó là Linear
Repetitive Programming (LRP) với thuật ngữ tuyến tính ban đầu ám chỉ chủ yếu
những dự án có công tác lặp lại liên tục theo phương ngang như dự án đường cao
tốc, cầu, hầm tunnel, đường xe lửa, hệ thống đường ống, cống… trong khi thuật ngữ
lặp lại miêu tả những dự án xây dựng có công tác được lặp lại trong những đơn vị
lặp lại riêng biệt theo phương đứng như trong trường hợp nhà cao tầng. Những
phương pháp khác nhau đã được đề nghị cho việc lên kế hoạch, hoạch định và kiểm
tra tiến trình dự án xây dựng của những dự án loại này. Sự phát triển của Repetitive
Scheduling method (RSM) bởi Harris và Ioannou (1998) [6] và Yang (2002a) [7] có
Chương II Trang 15
thể được áp dụng cho cả 2 loại dự án này, là mốc lịch sử cho việc phân loại dự án
thành những mục đặc trưng như LRPs. Mặc dù cơ cấu phân chia công việc của LRP
có thể mở rộng ra hàng trăm công tác. Điều này được nhóm lại trong một vài nhóm
công tác được lặp lại trong một vài đơn vị. El-Rayes và Moselhi (1998) [8] kiểm tra
một trường hợp thực tế của việc thi công đường bao gồm 5 nhóm công tác lặp lại
trong 15 đơn vị và El-Rayes et al (2002) [9] cũng dùng một dự án xây dựng nhà liên
quan 13 nhóm công tác được lặp lại trong 10 đơn vị.
Phương pháp được sử dụng thường xuyên nhất cho việc thiết kế lên kế hoạch,
hoạch định và kiểm soát cho những dự án xây dựng là sơ đồ mạng dựa vào
PERT/CPM (Mattila và Abraham 1998) [5]. Tuy nhiên, từ 1970 nhiều nhà nghiên
cứu khác nhau đã thách thức khả năng của nó trong việc chứng tỏ khả năng không
phù hợp của phương pháp này, cùng lúc đó những nghiên cứu của họ đã dẫn đến sự
phát triển của những phương pháp thay thế thích hợp hơn cho những tiến trình xây
dựng (Peer 1974 [10]; Carr và Mayer 1974 [11]; Dressler 1974 [12]; O’Brien 1975
[13]; Ashley 1980 [14]; Selinger 1980 [15]; Birrell 1980 [16]; Johnston 1981[17];

của sự ràng buộc điều kiện vật lý như là trong những dự án gián đoạn (nghĩa là
những sàn trong nhà cao tầng). Trong một dự án đường cao tốc, một đơn vị dự án
tượng trưng cho một đoạn của đường cao tốc có một chiều dài nào đó nhưng không
phải tất cả mọi đơn vị phải có cùng một chiều dài. Một vài chi phí cố định của việc
duy trì điều kiện công trường được kết hợp với mỗi đơn vị, một mặt có thể tăng chi
phí dự án nhưng nó đáp ứng quản lý tốt hơn có thể cải thiện dòng tiền dự án.
Hơn nữa, những quyết định hoạch định hiếm khi dựa vào một biến đơn. Hoạch
định dự án thay thế, so sánh và đánh đổi chi phí là cần thiết để đạt được một hoạch
định dự án chấp nhận và tối ưu. Về khía cạnh này, vấn đề hoạch định có thể được
xem như một vấn đề đa mục tiêu mà có thể được tiếp cận hiệu quả bằng kỹ thuật
chương trình tuyến tính. Sự thành thập chương trình tuyến tính sau cho việc hoạch
định LRP được dựa vào một hàm mục tiêu thông số, theo những giá trị của thông số
đó, có thể đạt tối ưu mục tiêu đơn (thời gian, thời gian hoàn thành đơn vị, gián đoạn
công tác) hoặc tối ưu đa mục tiêu bằng cách kết hợp những tính chất khác nhau vào
trong một tiêu chuẩn chi phí.
Chương II Trang 17
2.4 Hoạch định tiến độ tất định:
Biểu đồ thanh ngang (Bar chart), phương pháp đường cân bằng (LOB), phương
pháp hoạch định tuyến tính (RSM) và phương pháp đường găng (CPM) đã trở thành
một trong những phương pháp phổ biến nhất của việc hoạch định các dự án xây
dựng. Mặc dù biểu đồ thanh ngang được sử dụng một cách rộng rãi cho việc truyền
đạt thông tin liên lạc trên công trường ở cấp độ công nhân bởi vì tính đơn giản của
nó (dễ hiểu và trực quan) và phương pháp LOB/RSM được sử dụng cho việc hoạch
định những thành phần của dự án mang tính chất lặp lại, CPM được thừa nhận như
là một công cụ thích hợp nhất cho việc hoạch định sơ đồ mạng của công việc. Điều
này có được bởi vì khả năng thể hiện mối quan hệ thứ tự giữa những công việc, việc
tìm hiểu những công tác trên đường găng cung cấp thời gian dự trữ cho các công

D
F
E
A
B
C
D
F
E
A
B
C
D
F
E
A
B
C
D
F
E
ÑÔN VÒ 6
ÑÔN VÒ 5
ÑÔN VÒ 4
ÑÔN VÒ 3
ÑÔN VÒ 2
ÑÔN VÒ 1

Hình 2.2 Sơ đồ mạng có công tác lặp lại


gian hoạch định của nhà thầu thường vượt quá ước đoán thời gian của các công tác
(Mattila và Bowman 2004) [25].
Những phương pháp thay thế đã được đề nghị cho phương pháp hoạch định
tuyến tính được bắt nguồn chính từ mô hình đồ thị trên trục X-Y, với một trục chỉ
thời gian và trục kia chỉ tiến trình công việc. Những phương pháp này có thể được
tổ chức theo Mattila và Abraham (1998) [5] thành 3 mục chính sau:
 Dựa vào kỹ thuật đường cân bằng áp dụng chủ yếu cho những dự án
riêng biệt.
Chương II Trang 20
 Dựa vào phương pháp hoạch định tuyến tính (LSM) thích hợp hơn cho
những dự án liên tục.
 Kết hợp những kỹ thuật trước đây với những kỹ thuật nghiên cứu hoạt
động khác như là chương trình năng động, chương trình xác suất, chương
trình tuyến tính, mô phỏng…
Trong khi tất cả những kỹ thuật này vượt trội tính không thích hợp của
PERT/CPM nhưng chúng thất bại trong việc đạt được sự chấp thuận rộng rãi và sử
dụng thực tiễn. Lý do chính cho sự chấp thuận hạn chế của chúng là:
 Chúng phức tạp hơn cái mà chúng nên có.
 Không có một thuật toán (tiến trình) chấp thuận cho việc xác định đường
găng của dự án để xác định thời gian hoàn thành (Harris và Ioannou 1998
[6]; Harmelink và Rowings 1998 [21]; Kallantzis và Lambropoulos 2003
[26]). Sự thiếu sót của thuật toán xác định đường găng có thể được quy
kết cho sự thật là trong tất cả những phương pháp này sự giả định ngầm
là mọi công tác phải được xem xét như găng để kiểm soát tốt hơn một dự
án (Peer 1974) [10]. Tuy nhiên, những nổ lực đáng kể đã được thực hiện
trong những năm gần đây hướng đến việc phát triển một thuật toán chấp
nhận và chính xác để xác định đường găng trong LRPs (Harmelink và
Rowings 1998 [21]; Harmelink 2001 [27]; Mattila và Park 2003 [28];
Kallantzis và Lambropoulos 2003 [26], 2004 [29]).
Hoạch định cho dự án có công tác lặp lại (RSM) đã được giới thiệu bởi

dụng nguồn lực không gián đoạn nó trái ngược với hệ thống đẩy CPM với bắt đầu
của mỗi công tác được đẩy đến thời điểm để duy trì mối quan hệ thứ tự với công tác
trước. Mục tiêu của RSM không phải là cực tiểu thời gian dự án nhưng đạt được
tính liên tục của tổ đội điều này đồng nghĩa với việc cực tiểu chi phí dự án. Trong
những dự án xây dựng, cực tiểu tổng chi phí có lẽ đáng quan tâm hơn việc giảm
thời gian dự án (Yang 2002b) [32]. Tuy nhiên, sự giả thuyết này có thể không đúng
vì kéo dài thời gian dự án có thể dẫn đến không những trì trệ gây trễ thời gian dự án
theo kế hoạch và bị phạt mà còn dẫn đến doanh thu bị mất. Đặc biệt trong những dự
án liên quan đến rủi ro cao của việc trì hoãn lâu dài bởi vì sự tranh cãi liên quan đến
Chương II Trang 22
luật hoặc những điều khác gây ra đáp ứng những phần của dự án và làm chúng phải
hoạt động thiết yếu để tránh những mất mát tài chính nghiêm trọng. Do đó, người
quản lý dự án cần có sự xem xét đánh đổi giữa chi phí gia tăng khi kéo dài thời gian
dự án do việc tuân thủ tính liên tục của tổ đội và chi phí gia tăng khi xảy ra lãng phí
của tổ đội.
Trãi qua nhiều thập niên, đã có rất nhiều phương pháp khác nhau được đề
xuất nhằm đưa ra một công cụ hay phương pháp thích hợp trong việc tìm ra một
cách thức tối ưu trong vấn đề hoạch định những dự án có công tác lặp lại. Điển hình
nhất là một số phương pháp sau đây: phương pháp LOB (Carr và Meyer 1974 [11],
Arditi và Albulak 1986 [37], Al Sarraj 1990 [38], Reda 1990 [20]) hay phương pháp
LSM/RSM (Selinger 1980 [15], Johnston 1981 [17], Chrzanowski và Johnston 1986
[39], Russell và Wong 1993 [22], Eldin và Senouci 1994 [40]). Điều này chứng tỏ
rằng hoạch định cho dự án có các công tác lặp lại thật sự là mối quan tâm của các
nhà quản lý dự án.

2.5 Hoạch định tiến độ xét đến nhân tố rủi ro:
Rõ ràng CPM về bản chất nó là một phương pháp tất định bởi vì giá trị thời
gian cứng nhắc được gán cho các công tác trong suốt quá trình phân tích sơ đồ
mạng, điều này như thể giá trị thời gian cho những công việc này được biết một
cách chắc chắn và không thay đổi bởi những nhân tố rủi ro. Sự giới hạn này có thể

trong việc biến đổi thời gian của những công tác, có thể theo chiều hướng thuận lợi
hay bất lợi, do đó thời gian thật sự của một công tác có thể dài hơn hay ngắn hơn
thời gian mong đợi. Quản lý rủi ro được định nghĩa như một quy trình kiểm soát hệ
thống đối với việc dự đoán các rủi ro phải đối mặt trong việc đầu tư hoặc một dự án
(Dikmen et al. 2004 [48]; Oztas và Okmen 2004 [49]). Đó là một qui trình dạng thứ
bậc bao gồm xác định rủi ro, phân loại rủi ro, phân tích rủi ro và các công tác đáp
ứng với rủi ro (Flanagan và Norman 1993[43]).
Các mô hình phân tích rủi ro như là PERT, MCS, và PNET đều có khả năng
quan tâm đến mức độ không chắc chắn nhưng các phương pháp này không có khả
năng xác định độ nhạy của những công tác hoặc hoạch định toàn bộ dự án đối với
các nhân tố rủi ro. Hơn nữa, chúng bỏ qua của việc ảnh hưởng của mối tương quan
giữa những công tác (Wang và Demsetz 2000a [50], 2000b [51]). Chúng đơn giản
chỉ tiếp cận vấn đề trong bối cảnh lấy những khoảng thời gian của công tác giữa
Chương II Trang 24
một số giới hạn được ước lượng và cố gắng đo độ sai lệch của thời gian hoàn thành.
Tuy nhiên, trong trường hợp một vài công tác bị ảnh hưởng của cùng một nhân tố
rủi ro, thời gian của chúng có thể bị tương quan với nhau. Nếu những công tác trên
một đường nào đó là tương quan, sự biến đổi thời gian của đường đó sẽ tăng lên và
có thể ngày hoàn thành dự án sẽ không chắc chắn ở mức độ cao (Wang và Demsetz
2000b [51]).
Cho đến bây giờ, những mô hình phân tích rủi ro việc hoạch định khác nhau
đã được phát triển bởi những người nghiên cứu nhân tố rủi ro liên quan đến thông
tin độ nhạy, kết hợp ảnh hưởng của mối tương quan vào việc hoạch định và củng cố
việc quản lý rủi ro về mặt hoạch định trong chiến lược phát triển đáp ứng rủi ro
(Wang và Demsetz 2000b [51]): mô hình cho việc xác định yếu tố không chắc chắn
(MUD) (Carr 1979) [52], dự đoán thời gian dự án (PRODUF) (Ahuja và
Nandakumar 1985) [53], PLATFORM (Levitt và kunz 1985) [54], mô hình giá trị
trông đợi có điều kiện (CEV) (Ranasinghe và Russell 1992) [55], mô phỏng chính
xác (Touran và Wiser 1992) [56], mô phỏng nhân tố (Woolery và Crandall 1983)
[57], sơ đồ mạng dưới sự tương quan không chắc chắn (NETCOR) (Wang và

Trích đoạn Mơ hình máy tính đề xuất nên đƣợc phát triển: Kết luận và kiến nghị: Phân tích rủi ro: Giới thiệu mơ hình phân tích rủi ro hoạch định tƣơng quan: Nguyên lý và thuật tốn của mơ hình:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status