Nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Pdf 33

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM............................................................5
CHƯƠNG 2 CÁC CHỦ THỂ CÓ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH......................................22
CHƯƠNG 3 THỰC TIẾN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ...................................................................38

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật dù hoàn thiện đến đâu nếu không đảm bảo được tính khả thi trong
thực tế thì cũng không phát huy được hiệu quả. Để đảm bảo hiệu lực của pháp luật
ngoài yêu cầu về kỹ thuật xây dựng cũng như yêu cầu về nội dung trong việc ban
hành các văn bản pháp luật thì việc thực hiện và áp dụng pháp luật cũng đóng một
vai trò quan trọng. Trong đó phải kể đến việc nhanh chóng giải quyết các vụ án dân
sự một cách chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật là một yêu cầu
cấp thiết để bảo vệ quyền lợi của các đương sự, củng cố niềm tin của quần chúng
vào sự công minh của pháp luật, đồng thời giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật
cho người dân.
Trường Đại học Luật Hà Nội

1


Để giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án dân sự thì một trong những yếu
tố quan trọng cần phải quán triệt là Tòa án nhân dân phải thực hiện tốt việc xác
minh, đánh giá chứng cứ và những người tham gia tố tụng phải thực hiện tốt nghĩa
vụ chứng minh của mình.
Các quyền lợi ích hợp pháp của công dân khi bị vi phạm hay tranh chấp thì

- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật dựa trên các cơ sở lý luận vững chắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu: là các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: với phạm vi của một Khóa luận tốt nghiệp và với yêu
cầu của đề tài nghiên cứu là: nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam, vì vậy tác giả nghiên cứu chuyên sâu về các chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự trong phạm vi các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành. Nhằm làm nổi bật các chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh và
họ chứng minh bằng cách nào.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận về Nhà nước và pháp luật
của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp được sử dụng trong Khóa luận là phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành được sử dụng như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp.
5. Tình hình nghiên cứu
Trường Đại học Luật Hà Nội

3


Nghĩa vụ chứng minh là một quy định rất cụ thể và rõ ràng, có phạm vi
không rộng, chỉ tập trung vào các chủ thể có nghĩa vụ. Cho đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ở
những khía cạnh khác nhau như: “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự”
(Trần Anh Tuấn, luận văn tốt nghiệp năm 1992); “ Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” (Phan Hữu Thư, Tạp chỉ Dân chủ và


5


nhiều hoạt động tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự đó. Một trong
những hoạt động quan trọng mang tính chất quyết định đến việc giải quyết đúng
đắn, khách quan vụ án là hoạt động chứng minh. Nếu như hiểu chứng minh trong
đời sống thường ngày như chứng minh trong một cuộc tranh luận để bảo vệ ý kiến
của một cá nhân hay một nhóm người, chứng minh khi phát biểu trong một diễn
đàn… thì trong tố tụng dân sự, chứng minh cũng là một dạng hoạt động không
giống hoàn toàn như một hoạt động trong đời thường, mà là hoạt động tố tụng, cụ
thể là hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích khôi phục lại trước Tòa án sự thật
khách quan của vụ việc dân sự đã xảy ra với những nét chính xác và tỷ mỉ nhất có
thể có, qua đó Tòa án có thể khẳng định có hay không có các sự kiện, tình tiết
khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của các bên đương sự
trong vụ việc dân sự.
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Bản
chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ
xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm
cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương thức mà
các chủ thể sử dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục
đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra
được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa xác định rõ các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chứng minh
là biện pháp duy nhất để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Thông qua hoạt
động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chủ thể khác thấy rõ các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối với các đương sự, chứng
minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích đó. Trước Tòa án,

nói cách khác việc thực hiện nghĩa vụ nằm ngoài ý chí chủ quan của chủ thể. Trong
Trường Đại học Luật Hà Nội
7


cuộc sống hàng ngày, mỗi người với mỗi vị trí, vai trò khác nhau trong xã hội lại
đảm nhận một nghĩa vụ khác nhau trong những mối quan hệ khác nhau. Đối với
các quan hệ trong dân sự thì vấn đề nghĩa vụ lại càng được đặt ra nhiều hơn đối với
mỗi chủ thể tham gia. Nghĩa vụ là một tiểu phần quan trọng của Luật dân sự. Việc
định nghĩa về nghĩa vụ tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế lại có nhiều rắc rối
riêng trong pháp luật Việt Nam. Tuy nghĩa vụ có lẽ được hiểu không khác nhau về
mặt nội dung nhưng nó lại được định nghĩa đôi khi khác nhau không chỉ về ngôn từ
mà cả từ xuất phát điểm. Việc làm rõ định nghĩa về nghĩa vụ có ích cho việc hiểu
rõ hơn các nguồn gốc của nghĩa vụ (hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ). Trong Bộ luật
dân sự 2005 định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao
quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực
hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi
chung là bên có quyền)” (Điều 280). Định nghĩa này đã nhắc tới các bên trong
quan hệ nghĩa vụ và liệt kê các “đối tượng” của nghĩa vụ. Từ định nghĩa về nghĩa
vụ dân sự như trên ta thấy xuất phát từ bản chất của nghĩa vụ dân sự là quyền yêu
cầu, cho thấy nghĩa vụ dân sự có các đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý. Đặc điểm này nói lên sự cưỡng
chế thi hành của pháp luật đối với nghĩa vụ và phân biệt nó với nghĩa vụ tự nhiên.
Nó bao gồm hai thành tố là: được pháp luật công nhận và có giá trị cưỡng bức thi
hành.
Thứ hai, nghĩa vụ là một quan hệ đối nhân (quyền đối nhân). Có nghĩa là
quyền của trái chủ chỉ được thi hành đối với người thụ trái chứ không được thi
hành trên bất kỳ tài sản nào, có nghĩa là trái chủ chỉ có thể yêu cầu người thụ trái
thực hiện nghĩa vụ.

định đoạt (Điều 5 BLTTDS). Gắn liền với quyền tự định đoạt đó là nghĩa vụ chứng
minh của đương sự. Quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của đương sự là
Trường Đại học Luật Hà Nội

9


điểm cơ bản để phân biệt họ với bị can, bị cáo trong vụ án hình sự. Trong vụ án dân
sự, trước hết đương sự phải đưa ra những bằng chứng chứng minh những quyền lợi
của mình.Trong trường hợp cơ quan, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, họ
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh yêu cầu khởi kiện của họ là đúng đắn
và có căn cứ; người đại diện cho đương sự nếu có yêu cầu cũng có nghĩa vụ chứng
minh cho yêu cầu đó; người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tuy không tự đề ra yêu
cầu những có nghĩa vụ phải chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Đó là nghĩa vụ
chứng minh của các đương sự và nếu họ không chứng minh được thì sẽ không bảo
vệ được quyền lợi của mình.
Từ những điều phân tích ở trên cho thấy nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự thuộc về chủ thể có yêu cầu trong vụ án dân sự, chủ thể nào có yêu cầu thì
phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng với thực
tế khách quan. Nếu không thực hiện được nghĩa vụ đó, tức là chủ thể đã tự mình
tước đi cơ hội được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích cho mình và phải tự mình
gánh chịu rủi ro. Điều này khác hoàn toàn với chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
trong hoạt động tố tụng hình sự. Đối với tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ án hình sự đó. Vụ án hình
sự giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và kẻ tội phạm. Khi một người thực hiện
một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định thì sẽ phát sinh một
quan hệ pháp luật giữa họ với Nhà nước. Về mặt pháp lý, các quan hệ xã hội phát
sinh do việc thực hiện một tội phạm được coi là những quan hệ pháp luật hình sự.
Trong quan hệ pháp luật hình sự, có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau:
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự với tư cách là

thuộc về phía cơ quan tiến hành tố tụng. Giải thích cho đặc điểm này, cũng như giải
thích cho sự khác biệt trên ta có thể đi từ bản chất của hành vi trong tố tụng:

Trường Đại học Luật Hà Nội

11


Trong tố tụng dân sự, các tranh chấp, yêu cầu chủ yếu phát sinh từ các quan
hệ dân sự giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau. Chính tính chất
bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và quyền tự
định đoạt của các chủ thể này đã tạo nên sự khác biệt cơ bản của nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Trong tố tụng dân sự, đương sự có
quyền tự định đoạt, tức là đương sự sẽ tự quyết định về quyền, lợi ích của mình và
lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Quan hệ dân sự là
quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và
chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà
nước hỗ trợ hay không. Hơn nữa, các bên đương sự là chủ thể của quan hệ pháp
luật tranh chấp hoặc là người đưa ra yêu cầu, họ là người hiểu rõ vụ việc của mình
nhất, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp. Họ thường biết rõ các tài
liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Bên
cạnh đó, khi khởi kiện cũng như khi đưa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đương sự cũng
là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh
vực cho quyền lợi của mình. Do đó, khi các bên đã đưa việc tranh chấp của họ ra
tòa, thì Tòa án chỉ là người trọng tài giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách
khách quan và đúng pháp luật chứ Tòa án không thể làm thay, chứng minh thay
cho đương sự với những yêu cầu của họ. Còn đối với hoạt động tố tụng hình sự thì
trước hết do tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các khách thể
quan trọng được Luật hình sự bảo vệ bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế

1.2.2. Đặc điểm về đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự, và là cơ sở giải quyết vụ việc dân sự. Các quan hệ cần giải quyết trong
vụ việc dân sự rất đa dạng nên các tình tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ
việc dân sự cụ thể rất phong phú. Do vậy, trong quá trình giải quyết, Tòa án phải
Trường Đại học Luật Hà Nội

13


xác định những tình tiết, sự kiện nào cần phải chứng minh. Để xác định được đối
tượng chứng minh của mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa trên yêu cầu hay phản
đối yêu cầu của đương sự. Đương sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có yêu cầu,
hay phản đối yêu cầu. Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết,
sự kiện khẳng định của bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên
phản lại yêu cầu liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ
việc dân sự.
Ngoài đối tượng chứng minh bao gồm các sự kiện phải chứng minh như đã
phân tích ở trên, BLTTDS quy định tại Điều 80 về những tình tiết sự kiện có tính rõ
ràng thì không phải chứng minh như: tình tiết, sự kiện mọi người đều biết; những
tình tiết sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền; những tình tiết, sự kiện được ghi trong văn bản được
công chứng, chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều
biết thì không phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh phải được Tòa án thừa nhận.
Để giải quyết được các vụ việc dân sự theo quy định taị Khoản 1, 2 Điều 79
BLTTDS, đương sự phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là hợp
pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác phải chứng minh sự phản đối đó
là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích

ra yêu cầu mà không đưa ra được các chứng cứ để chứng minh thì các chủ thể đó sẽ
không bảo vệ được quyền lợi của mình, đồng thời cũng không thể ràng buộc Tòa
án trong việc giải quyết yêu cầu.
Thứ hai, chính từ việc khai thác triệt để khả năng của các chủ thể trong việc
cung cấp chứng cứ, mà quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự còn
có ý nghĩa quyết định sự thành công trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Bởi nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trước tiên bao gồm các nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
đây là hoạt động khởi nguồn quyết định tới các hoạt động khác. Theo đó, khi
đương sự đưa ra yêu cầu mà không có bất kỳ bằng chứng, lý lẽ nào chứng minh
Trường Đại học Luật Hà Nội

15


cho quyền lợi hợp pháp của mình thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ kiện và vì vậy
không làm phát sinh bất cứ một hoạt động tố tụng nào tiếp theo. Đây cũng chính là
đặc điểm đặc trưng nhất của tố tụng dân sự. Có thể khẳng định, sự thành công trong
việc giải quyết vụ việc dân sự trước hết phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu mà các
đương sự cung cấp. Chứng cứ càng đầy đủ, chính xác thì vụ kiện càng được giải
quyết nhanh chóng, công bằng và hợp lý.
Thứ ba, việc quy định nghĩa vụ cụ thể có ý nghĩa tránh được sự đùn dẩy
trách nhiệm giữa cơ quan tiến hành tố tụng (cụ thể là những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng) và người tham gia tố tụng.
Nếu như theo quy định tại các Pháp lệnh trước kia, như PLTTGQCVADS,
PLTTGQCVAKT, và PLTTGQCTCLD thì mỗi đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện
vì lợi ích chung có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi
kiện của mình, phía đương sự đối lập cũng có thể đưa ra chứng cứ để yêu cầu lại
đối với đương sự bên kia và việc phản đối của mình đối với yêu cầu của đương sự
đối lập. Tùy theo trình độ, năng lực của mỗi đương sự mà họ có thể tự mình hoặc
nhờ luật sư hay thông qua người đại diện thu thập chứng cứ để chứng minh trước


Sơ lược quá trình phát triển các quy định về nghĩa vụ chứng minh trong

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng được hình thành trên
cơ sở hạ tầng xã hội tương ứng. Pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp
thống trị thực hiện quyền làm chủ của mình, định hướng và duy trì sự ổn định xã
hội. Vì vậy, qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau với sự hình thành, tồn tại và suy
vong của nhiều chế độ chính trị, bản chất của Nhà nước là khác nhau nên các quy
định liên quan đến nghĩa vụ của người dân nói chung và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự nói riêng cũng không giống nhau.
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945.
Trường Đại học Luật Hà Nội

17


Năm 1884, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời kỳ xã
hội Việt Nam “thuần” phong kiến chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến.
Chế độ phong kiến qua đi nhưng vẫn để lại những dấu vết đậm nét về hoạt động lập
pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mô và hoàn thiện nhất vào lúc bấy
giờ phải kể đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc
Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ XV – XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia
Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến nên các bộ luật này
mang tính chất hà khắc, vai trò của con người, của công dân, của đương sự không
được đề cao, thủ tục xét hỏi, thẩm vấn được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng
mang tính chất hình sự. Vấn đề về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng
minh trong vụ kiện dân sự được quy định một cách tản mạn và không rõ rang, nó
chỉ được nhắc đến một cách rõ ràng trong việc chứng minh yêu cầu của mình bằng
cách cung cấp chứng cứ trong những vụ việc cụ thể, nếu khi yêu cầu giải quyết mà

cách mạng. Tuy nhiên, Sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp dụng các quy phạm
pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập đến việc có cho tiếp tục
áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay không. Tiếp theo đó, Nhà nước ban
hành nhiều quy định khác nhau liên quan đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm
quyền của Tòa án các cấp, Sắc lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ xung Sắc lệnh số
15, Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc
lệnh 159/SL ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn … các quy định về nghĩa vụ
chứng minh của đương sự được quy định khá nhiều thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng.
Tại Thông tư số 06 – TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn điều tra trong tố tụng
dân sự quy định “Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, và người dự sự) có quyền đề
xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình …trong điều
kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật và trình độ văn hóa của đại đa số các
đương sự còn thấp, các đơn kiện và lời trình bày của họ không rõ ràng và đầy đủ,
Trường Đại học Luật Hà Nội

19


cho nên các tòa án phải tích cực giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền
lợi hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu và giúp cho họ biết
đề xuất những chứng cứ để chứng minh”. Quy định này đã đưa đương sự về vị trí
trung tâm của hoạt động tố tụng, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cầu,
giúp đỡ đương sự hiểu biết pháp luật và có thể đưa ra được những yêu cầu chính
đáng cũng như hỗ trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.
Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông
tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Để bảo
vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ nhưng tòa án

chứng cứ đó cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có quyền
được biết về các tài liệu, chứng của của đương sự khác cũng như được sao chép các
tài liệu đó. Đồng thời là quyền thì đây cũng là nghĩa vụ của đương sự.
Nói tóm lại, vấn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi
BLTTDS 2004 có hiệu lực còn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn
trên cơ sở của một nền kinh tế, xã hội kém phát triển, các giao lưu dân sự còn đơn
giản, tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những hạn
chế chung về chứng minh, ba Pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của
đương sự cũng như không tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ chứng minh của mình.
Chỉ từ khi BLTTDS 2004 ra đời thì nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân
sự mới thực sự đưa quy định một cách rõ ràng nhất, đảm bảo được quá trình xét xử
các vụ án dân sự được diễn ra nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi ích chính
đáng của các bên.

Trường Đại học Luật Hà Nội

21


CHƯƠNG 2
CÁC CHỦ THỂ CÓ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Trong quá trình chứng minh, các chủ thể tham gia vào hoạt động chứng minh
với những vị trí tố tụng khác nhau. Hành vi tố tụng của mỗi chủ thể được quy định
bởi vị trí tố tụng của họ, vì vậy chủ thể chứng minh thực hiện những hành vi tố
tụng của mình trong phạm vi quyền và nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng dân sự cho
phép. Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: các đương sự
(nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; các cơ quan, tổ

luận trung thực về vấn đề đó. Kết luận giám định hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa
học. Người giám định không cần biết kết luận của mình có ý nghĩa pháp lý gì đối
với việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung của Tòa án. Vì vây, người làm
chứng và người giám định không có nghĩa vụ chứng minh.
2.1.

Nghĩa vụ chứng minh của các đương sự là nguyên đơn yêu cầu và bị đơn

phản tố
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự
tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau
nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai
bên đương sự :“ Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng
minh”[14, tr.20]. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng
minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và
Trường Đại học Luật Hà Nội

23


phản đối của mình, hay nói cách khác ai khẳng định một sự việc gì thì phải chứng
minh sự việc ấy. Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
lợi cho mình với tư cách là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật nội
dung có vi phạm hay tranh chấp, đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu
cầu đó, họ biết được những tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó có khả năng cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Về mặt tâm lý, khi đưa ra yêu
cầu của mình bao giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa
ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho quyền lợi của mình. Sự thật là cơ sở
của yêu cầu và phản đối của các bên nên các bên sẽ quan tâm và tìm mọi cách để
khẳng định sự thật này. Có nghĩa là khi đưa ra yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn

những chứng cứ không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được
những chứng cứ có tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu
cầu của nguyên đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ.
Về phía bị đơn, họ là người bị kiện nên trước hết họ có quyền chứng minh
để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc chứng minh sẽ trở thành nghĩa vụ đối với bị
đơn nếu:
+ Bị đơn có yêu cầu phản đối hoặc phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn,
bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Chẳng hạn như:
nguyên đơn kiện đòi tài sản cho thuê, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố buộc nguyên
đơn phải trả cho mình những khoản tiền mà mình đã bỏ ra sửa chữa tài sản đó. Việc
giải quyết 2 yêu cầu có mối liên quan với nhau như trên làm cho việc giải quyết vụ
án được nhanh chóng, chính xác hơn. Như vậy đồng thời với yêu cầu phản tố,
người đưa ra yêu cầu phản tố phải cung cấp chứng cứ để chứng minh tính không có
căn cứ trong yêu cầu của nguyên đơn và tính có cơ sở của yêu cầu phản tố. Khi đó
nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu của bị đơn đồng thời phải chứng
minh cho việc phản đối yêu cầu của mình;
Trường Đại học Luật Hà Nội

25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status