TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM - Pdf 34

TỔNG QUAN VỀ TÁI CƠ CẤU KINH TẾ
VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT NAM
PGS.TS. Lê Xuân Bá
Viện trưởng Viện Nghiên cứu QLKTTW

Từ khi đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn được
trong và ngoài nước thừa nhận. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta còn nhiều
yếu kém và sự yếu kém này thể hiện rõ trong những năm gần đây. Nhận
rõ những yếu kém nội tại của nền kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã xác định “phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược” là quan
điểm phát triển cơ bản; và “đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền
kinh tế” là định hướng tổng quát của phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ
2011-2020. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (tháng 10/2011) đã quyết
định tái cơ cấu kinh tế trong đó tập trung ưu tiên tái cơ cấu 3 lĩnh vực
quan trọng nhất. Đó là, tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công;
tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng là các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước; và cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác. Thực hiện
chủ trương nói trên, Chính phủ đã chỉ đạo soạn thảo Đề án tổng thể tái
cơ cấu kinh tế và các đề án tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu DNNN và tái cơ
cấu hệ thống các tổ chức tín dụng. Bài viết này nhằm góp thêm tiếng nói
về việc tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Bài viết
gồm 3 phần: phần I trình bày khái quát sự cần thiết hay lý do phải tiến
hành; phần II trình bày mục tiêu và các nguyên tắc chủ yếu; và phần III
đề cập đến các định hướng giải pháp cần thực hiện trong quá trình trình
tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

128



khoảng từ 5,89%, v.v... Tăng trưởng GDP của nước ta không còn ở mức cao nhất trong khu vực,
năm 2010 về tăng trưởng GDP, nước ta đứng thứ 5 trong khu vực, đứng thứ 26 trên thế giới,
năm 2011 đứng thứ 4 trong khu vực và đứng thứ 28 trên thế giới; trong các năm gần đây, tăng
trưởng GDP của nước ta luôn thấp hơn mức bình quân của các nước đang phát triển.
21Lạm phát trung bình giai đoạn 2000-2005 là 5,1%/năm, và trung bình cho giai đoạn 20062010 là 11,4%/ năm. Năm 2011 tỷ lệ lạm phát hơn 18% so với năm 2010. Từ năm 2007, lạm
phát luôn ở mức hai con số (trừ năm 2009), cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng và thuộc
vào một trong số các nền kinh tế có lạm phát cao trên thế giới.

129


sút, thấp hơn mục tiêu kế hoạch và tốc độ trung bình về giảm nghèo của
các năm trước đây v.v...
Thực tế nói trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan,
nguyên nhân dài hạn và ngắn hạn, nhưng chủ yếu là do các vấn đề thuộc
về cơ cấu và mô hình tăng trưởng. Những đặc điểm yếu kém của cơ cấu
kinh tế và mô hình tăng trưởng hiện hành bao gồm:
- Tăng trưởng theo chiều rộng: động lực tăng trưởng tốc độ cao
phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư và gia tăng số lượng lao động. Tỷ lệ
đầu tư toàn xã hội quá lớn (trong nhiều năm là 40% - 42% GDP). Năm
2008, tổng đầu tư trên GDP của Việt Nam cao thứ 2 thế giới (trong số
145 nước được xếp hạng)22. Đóng góp của đầu tư cho tăng trưởng GDP
tăng rất nhanh (từ 5% vào năm 1990 lên trên 60% năm 2010). Đồng
thời, đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp cho tăng trưởng giảm
rất nhanh (từ gần 50% vào năm 1990 xuống 40% năm 2000 và khoảng
16% năm 2010).
- Nhà nước tham gia quá trực tiếp và quá chi phối hoạt động đầu
tư, kinh doanh, trong khi chưa thực hiện tốt các chức năng quan trọng
thuộc về nhà nước như quy hoạch, kế hoạch, giám sát và điều hành kinh
tế vĩ mô. Nền kinh tế lấy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm động lực

địa can thiệp trực tiếp của “hệ điều hành” đã bị thu hẹp rất nhiều.
Hệ quả là bất ổn vĩ mô lặp đi lặp lại với tần suất ngày càng dày,
mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tín dụng nhiều, tiết kiệm giảm, đầu tư
cao, nhưng hiệu quả thấp, dẫn đến: lạm phát cao (vì nhiều tiền nhưng ít
hàng); lãi suất cao và đồng tiền chịu sức ép giảm giá (do lạm phát cao);
thâm hụt ngân sách lớn (vì chi tiêu quá nhiều); thâm hụt thương mại lớn
(vì cầu trong nước quá cao nhưng năng lực sản xuất kém); bong bóng tài
sản (vì quá nhiều tiền nhưng lợi nhuận của hoạt động sản xuất thấp).
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra hai kết luận sau:
Một là, các yếu tố của mô hình trưởng theo chiều rộng (trước hết là
gia tăng quy mô vốn đầu tư và lao động) đã đến mức tới hạn; động lực
tăng trưởng phụ thuộc vào gia tăng vốn đầu tư, gia tăng số lượng lao
động v.v... đã yếu và đang giảm dần.
Đặc biệt, yếu tố nhân khẩu học thuận lợi từng đóng góp tới 1/3
mức tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quá khứ, nhưng hiện đang
suy yếu dần. Một số doanh nghiệp đã thông báo tình trạng thiếu hụt lao
động tại các thành phố lớn. Theo dự báo, tỷ trọng dân số nằm trong độ
tuổi 5-19 sẽ giảm dần từ mức 34% vào năm 1999 xuống còn 27% vào
năm 2010 và chỉ còn 22% vào năm 2020. Theo dự báo của Chính phủ,
lực lượng lao động Việt Nam có thể sẽ chỉ tăng 0,6%/năm trong thập
niên tới, nghĩa là chỉ bằng gần 1/4 mức tăng 2,8%/năm trong những
năm 2000-2010. Sự gia tăng lực lượng lao động vẫn sẽ tiếp tục đóng
góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế nhưng mức độ đóng góp sẽ thấp
hơn nhiều so với thập niên trước.
Trong khi dư địa và động lực tăng trưởng theo chiều rộng của nền
kinh tế đang giảm và yếu dần, thì các động lực của tăng trưởng theo
131


chiều sâu (gồm năng suất và hiệu quả sử dụng nguồn lực) chưa được

rộng không còn phù hợp, thì chủ trương, chính sách và cách thức quản
24McKinsey

132

(2012), Giữ nhịp tăng trưởng bền vững tại Việt Nam: thách thức về năng suất.


lý, điều hành nền kinh tế ở các cấp, các ngành chưa thay đổi kịp thời;
chậm khắc phục các điểm nghẽn (về hạ tầng, về thể chế và nguồn lực
lao động có trình độ cao) kìm hãm gia tăng năng suất và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp. Gia tăng vốn đầu tư dưới
các hình thức và kênh khác nhau vẫn là công cụ chủ yếu để thúc đẩy
tăng trưởng. Để đáp ứng yêu cầu nói trên, chính sách tài khoá và tiền
tệ mở rộng đã phải liên tục duy trì trong nhiều năm; và đó là một trong
các nguyên nhân quan trọng của lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô ở
nước ta trong thời gian gần đây.
Những lý do trên đây buộc chúng ta phải tiến hành tái cơ cấu kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
II. MỤC TIÊU VÀ NGUYÊN TẮC TÁI CƠ CẤU KINH TẾ
GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
1. Mục tiêu
Có thể nhìn nhận mục tiêu tái cơ cấu kinh tế theo 3 chiều cạnh sau
đây:
Thứ nhất, về chiều cạnh phân phối nguồn lực, tái cơ cấu kinh tế về
bản chất là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bố, quản lý và sử dụng
nguồn lực quốc gia, nhất là vốn đầu tư nhằm hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Các nhân tố sản xuất (gồm vốn, đất đai và tài
nguyên) phải được phân bố và dịch chuyển từ ngành, từ hoạt động kinh
doanh có năng suất thấp sang các ngành, các hoạt động kinh doanh có

các yếu tố tổng hợp và hiệu quả sử dụng nguồn lực sẽ dần trở thành
các động chủ yếu của tăng trưởng kinh tế với tốc độ hợp lý cho thời kỳ
2013-2015 và tốc độ cao hơn cho giai đoạn tiếp theo.
Hai là, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc với lạm
phát thấp và các nền tảng vĩ mô vững mạnh.
Ba là, thiết lập phát triển cân đối hợp lý giữa các địa phương, vùng
miền trên cơ sở phát huy lợi thế của từng địa phương, từng vùng, sự kết
hợp, phối hợp và bổ sung giữa các địa phương trong vùng và sự hỗ trợ
có chọn lọc và hiệu quả của Trung ương.
Bốn là, Nhà nước cần giảm vai trò là nhà đầu tư và người kinh
doanh trực tiếp. Cụ thể, cần đẩy mạnh chương trình cải cách doanh
nghiệp nhà nước, đặc biệt cần đẩy nhanh việc bán 100% các doanh
nghiệp nhà nước không thuộc các lĩnh vực chiến lược và giảm dần tỷ
trọng đầu tư công trong nền kinh tế.
Năm là, từng bước và liên tục cải thiện, nâng cấp trình độ phát triển
các ngành kinh tế nói riêng và nền kinh tế nói chung; qua đó, các ngành
sử dụng công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao từng bước thay thế các
134


ngành công nghệ thấp, thâm dụng lao động và giá trị gia tăng thấp để
trở thành những ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế.
Sáu là, tiếp tục tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong
GDP, và đến năm 2020 hai ngành này chiếm ít nhất 85% GDP; sản xuất
nông nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại, tổ chức sản xuất theo kiểu
công nghiệp, có năng suất cao, chất lượng cao.
Cuối cùng là, góp phần xây dựng và cũng cố vị thế quốc gia trong
quan hệ quốc tế, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở

- Cuối cùng là tăng trưởng thân thiện với môi trường, sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng.
Trong quản lý và điều hành nền kinh tế, luôn nỗ lực để đạt được
kết quả toàn diện. Tuy vậy, trong trường hợp phải lựa chon, thì ưu tiên
chất lượng tăng trưởng, mà trước hết là tăng trưởng với lạm phát thấp,
cân đối vĩ mô vững chắc, tăng trưởng đi kèm với tiếp tục xóa đói giảm
nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và thân thiện với môi trường.
Hai là, thực hiện đồng bộ và thống nhất hệ thống các giải pháp
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế và bảo đảm
an sinh xã hội. Trong điều kiện hiện nay, chúng ta không chỉ thực hiện
tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, mà còn phải kiềm
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Tất cả các
nội dung nói trên phải được thực hiện đồng thời, gắn với nhau và bổ
sung cho nhau. Do đó, các giải pháp về chống lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô, về tái cơ cấu kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội phải lồng ghép và
thống nhất với nhau, bổ sung và phối hợp với nhau cả trước mắt cũng
như trung và dài hạn.
Ba là, tiếp tục đổi mới, mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Tái cơ cấu kinh tế sẽ thành công, đạt được mục tiêu như dự
kiến, nếu thu hút sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân và
các thành phần kinh tế, nhất là tư nhân trong nước và nước ngoài, qua
đó, huy động được tối đa và sử dụng ngày càng hiệu quả hơn các nguồn
lực xã hội. Vì vậy, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, phân định rõ vai trò
của Nhà nước và thị trường; tiếp tục đổi mới mở rộng quy mô và hiệu
quả hoạt động của các loại thị trường, đảm bảo ngày càng đầy đủ hơn
quyền tự do và cơ hội kinh doanh của người dân và doanh nghiệp, các
nhân tố sản xuất dịch chuyển và phân bố chủ yếu theo tín hiệu của thị
trường. Cùng với việc nâng cao năng lực và hiệu lực quản trị quốc gia,
Nhà nước chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo và hỗ trợ phát triển thông
136

mức tăng tổng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán với quy mô và
hình thức thích hợp. Thực hiện điều hành cung ứng tiền tệ và tín dụng
một cách chủ động và linh hoạt tuỳ theo diễn biến của thị trường; đồng
thời, có chính sách hợp lý ưu tiên phân bố tín dụng cho sản xuất nông
nghiệp và các ngành liên quan phục vụ sản xuất nông nghiệp, cho sản
137


xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các lĩnh vực ưu
tiên phát triển khác.
Hai là, thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ một cách chủ
động và linh hoạt theo diễn biến cụ thể của thị trường; điều chỉnh mặt
bằng lãi suất huy động và cho vay giảm theo kỳ vọng của thị trường về
lạm phát với lãi suất hợp lý đảm bảo hài hòa lợi ích của người tiết kiệm,
người đầu tư và các tổ chức tín dụng, đồng thời, góp phần tích cực vào
kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền;
Ba là, giảm dần mức độ đô la hoá của nền kinh tế và sự phụ thuộc
vào đồng USD trong thanh toán quốc tế; thực hiện chính sách tỷ giá ổn
định linh hoạt và chủ động theo hướng ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, giảm nhập siêu và bảo đảm an toàn cán cân thành
toán quốc tế.
Bốn là, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với
thị trường vàng theo hướng: (i) thừa nhận và bảo đảm quyền sở hữu
vàng của cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật; (ii) thừa nhận và
bảo đảm vàng như một phương tiện cất trữ; (iii) hạn chế, tiến tới cấm
sử dụng vàng làm phương tiện trao đổi và thanh toán trên lãnh thổ Việt
Nam, hạn chế có hiệu quả quy mô và mức độ “vàng hoá” nền kinh tế;
(iv) kết nối thị trường vàng trong nước với thị trường quốc tế đảm bảo
giá vàng ở trong nước hài hoà hợp lý với giá vàng thế giới và mức lợi
tức của các tài sản khác; và (v) huy động tốt hơn số dự trữ vàng trong

ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý vốn
đầu tư từ ngân sách và vốn trái phiếu chính phủ, trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh đến các biện pháp quản lý liên quan đến phê duyệt dự án và bố
trí vốn đầu tư, đảm bảo vốn đầu tư phải được bố trí tập trung để hoàn
thành dự án trong thời gian sớm nhất, qua đó, giảm thất thoát lãng phí
và nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Đối với vốn trái phiếu chính phủ, trong giai đoạn 2012-2015
không bổ sung thêm dự án mới, đồng thời, tiếp tục rà soát, lựa chọn và
sắp xếp lại dự án đã có trong danh mục sử dụng trái phiếu chính phủ
trong giai đoạn 2011-2015 và kế hoạch năm 2012; tập trung vốn cho
các dự án đã hoàn thành và đã bàn giao đưa vào sử dụng, các dự án dự
kiến hoàn thành trong năm 2012-2013. Còn lại các dự án không bố trí
được vốn, thì chuyển sang thực hiện đầu tư theo hình thức khác, hoặc
huy động vốn đầu tư hợp pháp từ các nguồn khác để thực hiện hoặc tạm
thời đình hoãn, chuyển sang giai đoạn sau năm 2015.
- Đưa toàn bộ vốn đầu tư nhà nước, gồm cả vốn trái phiếu chính
phủ và vốn đầu tư nhà nước ngoài ngân sách khác vào khuôn khổ chi
tiêu trung hạn, đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước phản ánh đầy đủ
139


và chính xác các khoản thu chi, tăng cường kỷ luật, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong quản lý chi ngân sách, kiểm soát chặt chẽ nợ
công và giữ vững an ninh tài chính quốc gia.
- Cải cách chính sách tài khóa. Để thay đổi chính sách tài khóa, cần
bắt đầu với kỷ luật tài khóa. Kỷ luật tài khóa ở Việt Nam đã bị buông
lỏng trong một thời gian dài. Kết quả là tỷ lệ đầu tư đã trở nên rất lớn,
nợ công tăng nhanh, thâm hụt ngân sách luôn ở trong tình trạng báo
động, trong khi hiệu quả của chi tiêu lại thấp. Để tăng cường kỷ luật tài
khóa, cần ưu tiên thực hiện những chính sách sau:

nghiên cứu, xây dựng kế hoạch quản lý đầu tư trung hạn 2013-2015 để
định hướng phân bổ, quản lý và sử dụng vốn đầu tư công, thay cho kiểu
phân bố, quản lý vốn đầu tư hàng năm như hiện nay.
- Thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa thông tin về đầu tư;
đồng thời, tăng cường thẩm quyền và năng lực của hệ thống giám sát
đối với đầu tư công, khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động giám
sát của cộng đồng đối với các dự án đầu tư công nói riêng và hoạt động
đầu tư công nói chung; xác lập cụ thể quyền và trách nhiệm của cộng
đồng trong vai trò giám sát đối với đầu tư công.
2.2. Huy động tối đa và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư
tư nhân trong và ngoài nước
Trọng tâm chính sách là cải cách mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt
động của các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; có
bước đột phá về nâng cao tính minh bạch, bình đẳng, giảm phí tổn và
rủi ro của môi trường kinh doanh, đổi mới chế độ khuyến khích, ưu đãi
đầu tư và áp dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng để huy động tối
đa và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư thực hiện các nhiệm vụ chiến lược
của giai đoạn phát triển 2011-2020.
2.3. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và chất lượng các dự
án đầu tư nước ngoài
- Xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá, thẩm định và lựa chọn nhà đầu
tư và dự án đầu tư nước ngoài nhằm đạt được các mục tiêu: (i) thúc đẩy
chuyển giao công nghệ, đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ; (ii)
giảm thâm hụt và tiến tới cân bằng cán cân thương mại; (iii) sử dụng
hợp lý, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; và (iv)
tăng tỷ trọng giá trị gia tăng nội địa.
- Đổi mới hệ thống quản lý, vận động và xúc tiến đầu tư nước
ngoài; đồng thời, tăng cường năng lực và hiệu lực giám sát thực hiện
đầu tư sau đăng ký. Tách chức năng nghiên cứu, hoạch định chính sách,
141

nước; nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của từng
doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ doanh nghiệp nhà nước nói chung,
đảm bảo DNNN nói chung và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nói
riêng thực hiện tốt hơn vai trò của họ trong nền kinh tế.
142


Để đạt được mục tiêu nói trên, cần thực hiện giải pháp tái cơ cấu
đồng thời trên ba lĩnh vực. Một là, thay đổi tư duy và cách thức quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, giảm dần tiến tới xóa bỏ
bao cấp, lợi thế về quyền và cơ hội kinh doanh dành riêng cho doanh
nghiệp nhà nước, buộc các doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh
thực sự và kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường như đối với các
doanh nghiệp khác. Hai là, sắp xếp, tổ chức cơ cấu lại và cổ phần hóa,
đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp nhà nước. Ba là, đổi mới, phát
triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế.
3.1.1 Sắp xếp, tổ chức lại, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và đa
dạng hoá sở hữu khu vực DNNN bằng các giải pháp sau đây:
- Tiếp tục phân loại các DNNN, xác định cụ thể danh mục doanh
nghiệp nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% và doanh nghiệp cổ phần hoá,
doanh nghiệp sẽ giải thể hặc cho phá sản theo Quyết định số 14/2011/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành tiêu chí, phân loại doanh
nghiệp nhà nước25.
- Hoàn thành kế hoạch cổ phần hoá và kế hoạch thoái vốn (chuyển
nhượng cổ phần cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế khác) ở các doanh nghiệp đã cổ phần hoá ở các ngành, lĩnh vực
nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ cổ phần hoặc cổ phần chi phối,
trước hết là lĩnh vực dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, du lịch v.v... Nhà
nước chỉ tiếp tục nắm giữ cổ phần chi phối trong trường hợp thực sự
cần thiết.

ty; trên cơ sở đó, xác định phạm vi ngành nghệ kinh doanh chính và
các ngành nghề hỗ trợ liên quan. Tập trung đầu tư, đổi mới công nghệ,
đổi mới tổ chức quản lý để phát triển các ngành nghề kinh doanh chính
đảm bảo các tập đoàn, tổng công ty trở thành doanh nghiệp kinh doanh
có hiệu quả và có năng lực cạnh tranh hàng đầu trong các ngành, lĩnh
vực có liên quan.
+ Đối với các ngành kinh doanh không liên quan, nhất là ngân
hàng, tài chính, chứng khoán, bất động sản, bảo hiểm, thì các tập đoàn,
tổng công ty phải hoàn thành thoái vốn trước năm 2015.
- Cùng với việc thoái vốn khỏi các ngành nghề kinh doanh không
liên quan nói trên, các tập đoàn, tổng công ty phải cơ cấu lại hoạt động
kinh doanh, phân bố lại các nguồn lực và đổi mới, nâng cao hiệu lực
quản trị nội bộ và hiệu quả quản lý.
- Thiết lập và duy trì hoạt động hiệu quả hệ thống thông tin quản
lý, gồm thông tin về mục tiêu, kế hoạch và kết quả hoạt động tài chính,
thông tin về mục tiêu, kế hoạch và kế quả hoạt động kinh doanh, thông
tin về kết quả kiểm soát nội bộ (thường xuyên và định kỳ), kết quả kiểm
toán, thông tin về danh mục đầu tư, chất lượng danh mục các khoản đầu
tư và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, thông tin về từng cán bộ quản
lý chủ chốt của tập đoàn, tổng công ty và các lợi ích của họ có liên quan
đến tập đoàn, tổng công ty; thông tin về sự kiện quan trọng liên quan
144


đến tập đoàn/tổng công ty nói chung, các đơn vị thành viên nói riêng,
về các rủi ro và biến động bất thường liên quan v.v...
3.1.3 Xây dựng và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ
quốc tế bằng các giải pháp sau đây:
- Đổi mới một cách cơ bản cơ chế, nâng cao hiệu lực thực hiện
quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm:

3.1.4. Hoàn thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy doanh nghiệp
nhà nước tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc và kỷ luật của thị trường,
cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác.
3.2. Thực hiện các chương trình quốc gia về phát triển doanh
nghiệp gắn với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp
Thực tế cho thấy từ năm 2000 đến nay khu vực kinh tế tư nhân
trong nước đã tăng trưởng vượt bậc về số lượng; sau 10 năm phát triển,
một số doanh nghiệp đã thành tập đoàn kinh tế, thuộc vào nhóm các
doanh nghiệp lớn nhất của cả nước. Tuy vậy, đại đa số doanh nghiệp
vẫn có quy mô vừa và nhỏ, phạm vị hoạt động chủ yếu ở địa phương;
năng lực tiếp nhận chuyển giao và đổi mới công nghệ, năng lực quản lý,
v.v... còn thấp; sự kết nối và hợp tác giữa các doanh nghiệp cũng còn hết
sức yếu kém. Nói chung, năng lực nội tại của các doanh nghiệp chưa đủ
mạnh để có thể mở rộng quy mô một cách vững chắc để trở thành doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Vì vậy,
để góp phần nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, Chính phủ cần thực hiện một số chương trình và các giải pháp
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp về các lĩnh vực như hỗ trợ năng lực công
nghệ, đào tạo, quản trị công ty, chất lượng sản phẩm, bảo lãnh đầu tư,
hỗ trợ xuất khẩu v.v...
4. Tái cơ cấu ngành kinh tế
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 đã xác định là phải
thay đổi cơ cấu sản xuất và dịch vụ cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng
và giá trị gia tăng. Trọng tâm của đổi mới và chuyển đổi cơ cấu công
nghiệp và dịch vụ là phân bố lại cơ cấu sản xuất phù hợp với từng vùng,
ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phảm có khả
năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các ngành
công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, thông tin và truyền thông, các sản
phẩm nông nghiệp, thủy sản có lợi thế cạnh tranh v.v... tăng hàm lượng

phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng chuyên biệt, thu thập, tập hợp và cung
cấp thông tin thị trường, giáo dục và đào tạo kỹ năng lao động và chất
lượng nhân lực, các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất
lượng, các tiêu chuẩn môi trường, thẩm định, đánh giá và xác nhận tiêu
chuẩn, quy chuẩn v.v... phải phối hợp, tạo thành gói giải pháp toàn diện,
nhất quán nhằm xoay quanh và khuyến khích phát triển mạng sản xuất
và chuỗi giá trị. Đồng thời, kết hợp, phối hợp và lồng ghép chính sách
phát triển ngành với chính sách phát triển vùng; hình thành mối liên kết
giữa các địa phương trong vùng thông qua các liên kết ngành.
147


Nghiên cứu, triển khai thực hiện khuyến khích và hỗ trợ phát triển
các mạng sản xuất và chuỗi giá trị sản xuất đối với các ngành ưu tiên
đầu tư phát triển.
Nội dung của từng giải pháp hỗ trợ hay can thiệp của Nhà nước
phải được xác định tương ứng căn cứ vào các điểm yếu hay rào cản nội
tại của từng khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị; qua đó, khắc
phục được các điểm yếu hoặc rào cản cụ thể đó để nâng cao hiệu quả
của từng khâu và của toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất, phân bố hợp lý lợi
ích của các bên trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị, thúc đẩy phát triển
bền vững toàn chuỗi giá trị sản xuất, hoặc nâng cấp và tăng tỷ lệ nội địa
của các chuỗi giá trị ở trên lãnh thổ nước ta.
5. Khuyến khích phát triển và hình thành cơ cấu vùng kinh tế
hợp lý
Phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng với tầm nhìn dài hạn,
tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch,
khắc phục đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong
vùng; đồng thời, tăng cường liên kết, phối hợp giữa các vùng để cùng
phát triển; tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng lãnh thổ trọng điểm

chức tín dụng đa năng theo phương hướng hiện đại, hoạt động an toàn
và hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về quy mô, sở hữu, loại
hình, dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và quản trị tiên tiến phù hợp
với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng; có năng lực
cạnh tranh cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính - ngân
hàng của nền kinh tế.
Trước mắt và trong trung hạn đến 2015, tập trung lành mạnh hóa
tình hình tài chính và cũng cố năng lực hoạt động của các tổ chức tín
dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức
tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt
động ngân hàng.
6.2. Định hướng cơ bản tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng
Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ được thực hiện theo các
định hướng cơ bản sau đây:
Một là, quán triệt và thực hiện đẩy đủ chủ trương, quan điểm của
Đảng về đổi mới và phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng mà trọng
tâm của 5 năm tới là chấn chỉnh và cơ cấu lại hệ thống các ngân hàng
thương mại. Thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tài chính phải
đổng bộ và nhất quán với tái cơ cầu đầu tư và tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước.
149


Hai là, củng cố, phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng đa dạng
về sở hữu, quy mô và loại hình phù hợp với đặc điểm và trình độ phát
triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao vai
trò, vị trí chi phối, dẫn dắt thị trường của các tổ chức tín dụng Việt Nam,
bảo đảm các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương
mại có cổ phần chi phối của Nhà nước thực sự là lực lượng chủ lực, chủ
đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng, có đủ năng lực cạnh tranh trong

hoạt động bình thường.
+ Tự thực hiện cơ cấu lại để hoạt động có hiệu quả.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng nhóm này
tự sáp nhập, hợp nhất với nhau, hoặc sáp nhập với các tổ chức tín dụng
nhóm 1.
- Với nhóm 3:
+ Tạo điều kiện đảm bảo khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng
này.
+ Thực hiện hợp nhất, sáp nhập, mua lại theo nguyên tắc tự nguyện
hoặc theo chỉ đạo của Ngân hàng nhà nước khi cần thiết.
+ Cơ cấu lại tài chính, hoạt động và quản trị của các tổ chức tín
dụng gồm xử lý nợ xấu, tăng quy mô và chất lượng vốn tự có, cơ cấu
lại hệ thống quản trị phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về hoạt
động ngân hàng.

151


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá, “Tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế: tính tất yếu khách quan, khó khăn, thuận lợi và triển
vọng”, Đề cương bài trình bày tại Bộ Công an, ngày 29/2/2012.
2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Đề án “Tái cơ cấu
kinh tế với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu
quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”, tháng 3/2012.

152




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status