Công tác giám định chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế và việc bảo vệ quyền lợi cho người có thẻ bảo hiểm ở bảo hiểm y tế hà nộ - Pdf 34

LỜI MỞ ĐẦU

Đất nước ta sau hơn mười năm đổi mới, thực hiện đường lối chủ trương do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế xã hội đã đạt được một số thành tựu
bước đầu khá quan trọng. Nền kinh tế nước ta tăng trưởng liên tục với tốc độ
cao, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền
kinh tế được tăng cường, trình độ dân trí được tăng lên, tình hình chính trị - xã
hội được ổn định, quan hệ kinh tế không ngừng được mở rộng. Những điều kiện
này đã tạo tiền đề cho nước ta bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước. Một trong những nhân tố quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đó là nhân tố con
người. Để đáp ứng yêu cầu mới, để phù hợp với xu thế chung đòi hỏi mỗi chúng
ta phải rèn luyện về mọi mặt như tri thức, nhân cách và đặc biệt là phải có một
sức khoẻ tốt.
Mặt khác, mức sống ngày một nâng cao dẫn đến nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ ngày một tăng lên. Mọi người trong xã hội ai cũng muốn được sống no ấm,
hạnh phúc và mạnh khoẻ. Tuy nhiên trong cuộc sống thì chuyện ốm đau, bệnh
tật có thể xảy ra bất ngờ và hậu quả thì khó lường trước được. Nhà nước cũng đã
có nhiều chính sách quan tâm đến việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng song do
đất nưóc ta còn nghèo, ngân sách quốc gia còn hạn chế do đó khó có thể đáp ứng
đầy đủ mọi nhu cầu của nhân dân về chăm sóc sức khoẻ. Vì vậy, điều tất yếu là
phải huy động sự đóng góp của cộng đồng thông qua bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y
tế là một chính sách xã hội mang tính nhân đạo sâu sắc, thực sự đã, đang và sẽ
mang lại sự bình yên cho nhiều người bệnh, thể hiện truyền thống đạo lý của dân
tộc Việt Nam ta đó là truyền thống :"Lá lành đùm lá rách"; "Thương người như
thể thương thân". Thực hiện công tác bảo hiểm y tế là trách nhiệm của mọi cấp,

1


mọi ngành, mọi tầng lớp nhân dân. Để hoạt động bảo hiểm y tế thực sự mang lại

Từ xa xưa, loài người chỉ biết chữa bệnh bằng các loại lá rừng, bằng các
phương pháp đơn giản và tất nhiên chỉ chữa được các bệnh đơn giản lúc bấy giờ,
con người chưa tìm ra được các loại thuốc chữa bệnh. Đến thời đại phong kiến
loài người đã có tiến bộ hơn được đánh dấu bằng việc xuất hiện các lương y, họ
đã biết chế biến từ các loại cỏ cây, lá rừng ra các loại thuốc để có thể chữa trị
được một số loại bệnh. Song các lương y này không nhiều, vì vậy việc chữa bệnh
hầu như chỉ tập trung ở trong các triều đình và các gia đình quan lại bởi cũng chỉ
trong các triều đình, các gia đình quan lại mới có diều kiện khám chữa bệnh
(KCB), còn trong dân chỉ mới xuất hiện các thầy mo, thầy cúng, có chăng chỉ
biết chút ít về thuốc.
Dần dần, cùng với sự tiến bộ xã hội, khoa học phát triển thì con người đã
sản xuất ra được các loại thuốc như thuốc viên, thuốc tiêm từ các háo chất đặc
biệt và đã chế tạo ra các trang thiết bị để có thể chẩn đoán được bệnh tật, việc
3


khám chữa bệnh đã bắt đầu được phổ biến. Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa thì
mạng lưới y tế đã dần dần được phát triển đến từng địa phương, nhà nước đã bắt
đầu chú ý đến việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Hệ thống y tế được nâng
cấp dần bằng ngân sách của nhà nước, đội ngũ cán bộ ngành y được đào tạo
ngày càng tốt hơn, nhiều hơn. Cùng với sự phát triển kinh tế, của cải vật chất
được tạo ra ngày càng nhiều, đời sống con người ngày càng cao, nhu cầu KCB
và chăm sóc sức khoẻ của các tầng lớp dân cư không ngừng tăng lên, quan hệ
người bệnh và thầy thuốc ngày càng có sự gắn bó cần thiết.
Y học phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người qua các thời
kỳ của chế độ xã hội. Qua các thời kỳ, y tế có những chuyển biến nhất định. Thời
kỳ phong kiến và tư bản chủ nghĩa, y tế đã phát triển đến mức cần thiết song hệ
thống tổ chức y tế lúc bấy giờ còn kém, vai trò của nhà nước trong phát triển y tế
còn thấp, quan hệ giữa người bệnh và thầy thuốc mới chỉ là quan hệ cá nhân.
Đến thời kỳ nền kinh tế xã hội phát triển, cơ sở vật chất xã hội đã đạt đến

thể là rất lớn mà khả năng của người bệnh lại không đảm bảo được khoản chi
tiêu cần thiết đó. Vì vậy chỉ có bảo hiểm y tế mới đáp ứng được việc này với tính
chất huy động sự đóng góp của số đông người khoẻ mạnh để bù cho số ít người
ốm đau. BHYT sẽ có một khối lượng quỹ đủ lớn để thay mặt người bệnh thanh
toán các chi phí KCB cho các cơ sở KCB, giúp họ tháo gỡ được khó khăn lúc
này.
Mặt khác, trong xã hội văn minh hiện đại, để hiện đại hoá ngành y tế thì
nhà nước phải chi ra một khoản ngân sách rất lớn. Tuy vậy, do dân số ngày càng
tăng, do nhu cầu KCB ngày càng nhiều vì môi trường ngày càng bị ô nhiễm,
bệnh tật nhiều nên con người càng quan tâm đến sức khoẻ vì điều kiện kinh tế xã
hội đã được nâng cao. Chính vì vậy nhà nước không thể đảm đương, gánh vác
nổi toàn bộ những chi phí cho ngành y tế. Và do điều kiện kinh tế- xã hội ngày

5


càng phát triển nên tuổi thọ của người dân ngày càng cao, cơ cấu dân số được
chuyển dịch theo chiều hướng số người già ngày càng đông làm cho nhu cầu
KCB không ngừng tăng lên. Thêm vào đó tất cả các cơ sở KCB, thuốc men, dịch
vụ y tế ngày càng có chiều hướng đắt tiền hơn, đặc trị hơn. Tất cả những vấn đề
nêu trên đã làm cho chi phí KCB ngày càng tăng lên nhanh chóng và nó đã trở
thành một loại dịch vụ đắt giá nhất trong số tất cả các dịch vụ trong xã hội. Vì
dịch vụ KCB đắt cho nên đại đa số người dân không đủ khả năng tài chính để
đáp ứng và muốn đáp ứng triệt để thì lại ảnh hưởng rất lớn chi tiêu của mỗi gia
đình. Điều này càng thúc đẩy BHYT ra đời và BHYT trở nên thực sự cần thiết
nhất là trong điều kiện xã hội hiện nay. Bắt đầu từ những thập kỷ 40, nhiều nước
trên thế giới đã triển khai BHYT. Hiện nay, BHYT ở một số nước được thực
hiện dưới các hình thức khác nhau, có nước BHYT nằm trong hệ thống bảo hiểm
xã hội và có những nước thì BHYT là một hệ thống độc lập.
Ở Mỹ, cùng với hệ thống an sinh xã hội, BHYT ra đời vào năm 1935 (còn

ứng những đòi hỏi của người dân, vừa phù hợp với yêu cầu chung của xã hội.
Ở nước ta, bảo hiển y tế được thực hiện từ năm 1992 theo nghị định số
299/ HĐBT (nay là Chính phủ) ban hành ngày 15/8/1992. BHYT ở nước ta là
một loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý, huy động sức đóng góp
của cac nhân, tập thể và cộng đồng xã hội nhằm nâng cao chất lượng trong việc
khám và chữa bệnh. Đối với nước ta, đây là một lĩnh vực mới mẻ. BHYT áp
dụng bắt buộc đối với cán bộ công nhân viên chức (CBCNVC) tại chức, hưu trí,
nghỉ mất sức, lao động trong các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng,
đoàn thể xã hội, hội quần chúng có hưởng lương từ ngân sách nhà nước, các
doanh nghiệp quốc doanh, liên doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có từ
10 lao động trở lên, các tổ chức nước ngoài có thuê mướn lao động Việt Nam.
BHYT áp dụng hình thức tự nguyện cho mọi người dân.

7


BHYT ra đời là sự thay đổi lớn về chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước ta, nó giải quyết một số vấn đề sau:
- BHYT góp phần nâng cao chất lượng và công bằng xã hội trong KCB
- Giúp cho những người tham gia BHYT khắc phục được những khó khăn
về kinh tế khi có ốm đau, bệnh tật xảy ra.
- Góp phần đổi mới hệ thống y tế
-Giảm nhẹ được chi tiêu ngân sách của Nhà nước cho y tế.

2. Đặc điểm và tác dụng của BHYT
a. Đặc điểm của bảo hiểm y tế
Việc triển khai BHYT có đặc trưng rất cơ bản sau:
- Thứ nhất, đối tượng của BHYT là rộng nhất vì vậy nó cũng phức tạp
nhất, nếu thực hiện tốt nó sẽ đảm bảo được quy luật lấy số đông bù số ít. Quy
luật này đối với bảo hiểm là vô cùng quan trọng, nó quyết định tới sự tồn tại hay

- Thứ tư, BHYT góp phần cùng với các loại hình bảo hiểm con người khác
khắc phục nhanh chóng những hậu quả xảy ra đối với con người. Vì vậy nó luôn
được chính phủ các nước quan tâm.
- Thứ năm, BHYT còn góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và
điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế, từ đó làm cho chất lượng phục vụ của ngành y
tế không ngừng nâng cao. Trong khi nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho y tế
còn rất eo hẹp thì việc huy động các nguồn vốn khác bổ sung cho chi tiêu của
ngành còn triển khai rất chậm và thiếu đồng bộ. Việc thu viện phí chỉ thu được
khối lượng rất ít song lại tạo rất nhiều khe hở cho các loại tiêu cực phát triển, dẫn
đến một thực tế là trong khi bệnh nhân phải tăng phí tổn khám chữa bệnh, đầu tư

9


của ngân sách nhà nước không hề được giảm bớt mà bệnh viện vẫn xuống cấp.
Bên cạnh đó, việc khai thác các nguồn đóng góp của dân, của các tổ chức kinh
tế, nguồn viện trợ trực tiếp...chậm được thể chế hoá và chưa hoà chung vào ngân
sách y tế làm hạn chế việc phát huy các nguồn vốn quan trọng này. Do đó, khi
thực hiện BHYT sẽ tạo ra một nguồn kinh phí hỗ trợ cho ngành y tế nhằm góp
phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế,
làm cho chất lượng phục vụ của ngành y tế ngày càng tốt hơn, đáp ứng được nhu
cầu về chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ hiện nay.
b. Tác dụng của BHYT
Bảo hiểm y tế có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội, nó ra
đời đáp ứng nguyện vọng của mọi người dân, BHYT thúc đẩy sự phát triển của y
tế, tăng thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa nhu cầu khám chữa bệnh và sự phát
triển của ngành y tế.
b.1. BHYT tạo ra sự công bằng trong KCB
Với tính chất nhân đạo xã hội về lĩnh vực hoạt động của bảo hiểm y tế
(hoạt động trực tiếp liên quan đến chữa trị cho người bệnh có tham gia bảo hiểm

Mặt khác, xã hội phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao. Cuộc
sống khi đã đựoc cải thiện và nâng cao, vấn đề sức khoẻ sẽ được mọi thành viên
của xã hội cũng như các quốc gia quan tâm, đẩy mạnh sự phát triển y tế tạo điều
kiện cho BHYT phát triển nhanh và hoàn thiện. Khi bảo hiểm y tế càng hoàn
thiện thì nó sẽ bộc lộ được tính ưu việt của nó làm cho nhu cầu bảo hiểm y tế của
người dân càng cao. Khi xảy ra ốm đau cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn vì vậy
tham gia bảo hiểm y tế sẽ giúp người bệnh giải quyết được một phần khó khăn
đó do chi phí khám chữa bệnh đã được cơ quan bảo hiểm y tế thay mặt thanh
toán với các cơ sở KCB. Vì vậy sẽ giúp cho họ nhanh chóng khắc phục hậu quả

11


và kịp thời ổn định cuộc sống, tạo cho họ một niềm lạc quan trong cuộc sống.
Bảo hiểm y tế và vấn đề chăm sóc sức khoẻ luôn có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau.
Ở các nước kinh tế phát triển, nhu cầu về Bảo hiểm y tế rất cao:
- Ở Đức có khoảng 6.5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế tư nhân (tự
nguyện), gần 5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế nhà nước, hàng năm có
khoảng 15 triệu đến 17 triệu người tham gia bảo hiểm y tế tư nhân đi du lịch
nước ngoài.
- Ở Pháp, bảo hiểm y tế mang tính bắt buộc, hiện có khoảng 96.2% dân
số tham gia.
b.3. Bảo hiểm y tế làm tăng chất lượng trong khám chữa bệnh và quản lý y
tế
Sự đóng góp của số đông sẽ làm tăng quỹ về y tế dẫn đến:
- Trang thiết bị về y tế có điều kiện trang bị hiện đại hơn, có kinh phí để
sản xuất ra các loại thuốc quý, hiếm và nghiên cứu sản xuất các loại thuốc chữa
trị các bệnh hiểm nghèo
- Cơ sở khám chữa bệnh sẽ được xây dựng thêm, xây dựng lại một cách có

đầu tư cho ngành y, cho khám chữa bệnh sẽ chuyển dần sang quỹ bảo hiểm y tế.
Ở các nước công nghiệp phát triển, nguồn đầu tư cho y tế chủ yếu là qua
bảo hiểm y tế. ở Pháp tỉ lệ đó là 97 %, ngân sách Nhà nước chỉ cấp 3%.
Đối với lĩnh vực y tế, ai cũng có nhu cầu đầu tư cho sức khoẻ của chính
bản thân mình với năng lực hiện có. Nếu tìm được cơ chế hoạt động đúng đắn
cho bảo hiểm y tế chắc chắn chúng ta sẽ huy động được nguồn đầu tư có tiềm
năng rất lớn này. Việc khai thác đầu vào của bảo hiểm y tế mới chỉ tập trung vào
đối tượng bắt buộc còn đối tượng bảo hiểm y tế tự nguyện chiếm 80 % dân số thì
mới khai thác được rất ít, không đáng kể. Trong một năm, ngành y tế được ngân

13


sách nhà nước cấp kinh phí là 2500 tỷ đồng, trong khi đó năm 1998 mới có gần
20 % dân số tham gia bảo hiểm y tế thì quỹ bảo hiểm y tế dành cho khám chữa
bệnh qua thanh toán với các cơ sở khám chữa bệnh đã là 700 tỷ đồng. Vậy nếu
chúng ta có 50 % dân số tham gia bảo hiểm y tế thì sẽ có một nguồn tài chính
khổng lồ cho y tế, làm thay đổi hẳn tình trạng thiếu kinh phí mãn tính của hoạt
động y tế hiện nay.
Bảo hiểm y tế đã huy động sự đóng góp của dân cư tạo ra một nguồn quỹ
tương đối lớn, có khả năng chi trả cao. Dựa trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít,
bảo hiểm y tế đã cứu sống được nhiều người bệnh bằng nguồn quỹ do chính họ
đóng góp mà không phụ thuộc vào sự bao cấp của Nhà nước. Ngoài ra, hàng
năm các tổ chức bảo hiểm y tế phải đóng góp một khoản tiền nhất định vào ngân
sách Nhà nước theo quy định. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta phải huy
động ngân sách vào nhiều lĩnh vực khác nhau thì sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế lại
càng có ý nghĩa thiết thực, nhất là đối với ngành y tế.
b.5. BHYT ra đời còn góp phần đề phòng và hạn chế những căn bệnh hiểm
nghèo theo phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh".
Nhờ có dịch vụ khám chữa bệnh, bảo hiểm y tế đã kiểm tra sức khoẻ từ đó

+ Các tổ chức kinh tế thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng,
các tổ chức chính trị - xã hội.
+ Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công
nghiệp tập trung; các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam,
trừ trường hợp các điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác.
+ Các đơn vị, tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh có từ 10 lao động trở lên.

15


- Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chinhsự nghiệp;
người làm việc trong các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội; cán bộ xã,
phường, thị trấn; người làm việc trong các cơ quan dân cử từ trung ương đến cấp
xã, phường.
- Người đang hưởng chế độ hưu trí, hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng
tháng do suy giảm khả năng lao động.
- Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật.
- Các đối tượng bảo trợ xã hội được Nhà nước cấp kinh phí thông qua bảo
hiểm xã hội.
b. Bảo hiểm y tế tự nguyện:
BHYT tự nguyện được áp dụng với mọi đối tượng có nhu cầu tham gia
bảo hiểm y tế (như học sinh, sinh viên, nông dân...)
2. Quyền và trách nhiệm của các bên tham gia bảo hiểm y tế
a. Quyền và trách nhiệm của người có thẻ bảo hiểm
. Người có thẻ BHYT có quyền:
- Chọn một trong các cơ sở khám chữa bệnh ban đầu thuận lợi tại nơi cư
trú hoặc nơi công tác theo hướng dẫn của cơ quan bảo hiểm y tế để quản lý,
chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh
- Được khám chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế đã quy định:

- Đóng bảo hiểm y tế theo đúng quy định của điều lệ BHYT
- Cung cấp cho cơ quan BHYT các tài liệu về lao động, tiền công, tiìen
lương, phụ cấp liên quan đến việc đóng và thực hiện chế độ BHYT
- Chấp hành sự kiểm tra, thanh tra về việc thực hiện chế độ BHYT của các
cơ quan có thẩm quyền.
c. Quyền và trách nhiệm của cơ quan BHYT
. Cơ quan BHYT có quyền:

17


- Yêu cầu cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động đóng và thực hiện chế
độ bảo hiểm y tế, cung cấp các tài liệu liên quan đến việc đóng và thực hiện chế
độ BHYT
- Tổ chức các đại lý phát hành thẻ BHYT
- Ký hợp đồng với các cơ sở khám chữa bệnh hợp pháp để khám chữa
bệnh cho người được BHYT
- Yêu cầu cơ sở khám chữa bệnh cung cấp hồ sơ, bệnh án, tài liệu liên
quan đến thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT
- Từ chối thanh toán chi phí KCB không đúng quy định của điều lệ BHYT
hoặc không đúng với các điều khoản ghi trong hợp đồng đã được ký giữa cơ
quan BHYT và cơ sở KCB
- Thu giữ các chứng từ và thẻ BHYT giả mạo để chuyển cho các cơ quan
điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.
- Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xử lý các đơn vị, các cá nhân
vi phạm điều lệ bảo hiểm y tế
. Cơ quan BHYT có trách nhiệm:
- Thu tiền đóng BHYT, cấp thẻ và hướng dẫn việc quản lý,sử dụng thẻ bảo
hiểm y tế
- Cung cấp các thông tin về các cơ sở KCB và hướng dẫn người tham gia

- Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cơ quan BHYT thường trực tại cơ sở
nhằm thực hiện công tác tuyên truyền, giải thích về bảo hiểm y tế, kiểm tra việc
đảm bảo quyền lợi và giải quyết những khiếu nại liên quan đến việc KCB cho
người có thẻ BHYT
- Kiểm tra, phát hiện và thông báo cho BHYT Việt Nam những trường
hợp vi phạm và lạm dụng chế độ BHYT
3. Quỹ bảo hiểm y tế và mục đích sử dụng quỹ

19


- Quỹ bảo hiểm y tế hình thành từ tiền đóng bảo hiểm y tế và từ các nguồn
khác
- Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ
thống BHYT Việt Nam, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước và được Nhà
nước bảo hộ, sử dụng để thanh toán chi phí khám chữa bệnh và chi quản lý sự
nghiệp BHYT
Quỹ bảo hiểm y tế sẽ chi trả 80% chi phí khám chữa bệnh theo giá viện
phí, 20 % còn lại người bệnh tự trả cho cơ sở KCB. Riêng đối tượng thuộc diện
ưu đãi xã hội được quỹ BHYT chi trả 100% chi phí khám chữa bệnh theo giá
viện phí. Nếu số tiền mà người bệnh tự trả 20% chi phí KCB trong năm vượt quá
6 tháng lương tối thiểu hiện hành thì các chi phí KCB tiíep theo trong năm sẽ
được quỹ BHYT thanh toán toàn bộ.
Tiền đóng BHYT của đối tượng tham gia bảo hiểm y tế được phân phối sử
dụng như sau:
- Dành 91.5% cho quỹ khám chữa bệnh, trong đó 5% dành lập quỹ dự
phòng KCB
- Dành 8.5% cho chi quản lý thường xuyên của hệ thống BHYT Việt Nam
theo dự toán hàng năm được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và chế độ chi têu
của Nhà nước quy định.

hiểm y tế để thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định của điều lệ bảo
hiểm y tế cho người có thẻ bảo hiểm y tế khi họ ốm đau. Chính vì vậy, bảo hiểm
y tế mang tính xã hội và tính nhân đạo sâu sắc nhất trong các loại hình bảo hiểm.
Bảo hiểm y tế không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời mà chỉ nhằm san sẻ rủi
ro cho người tham gia khi họ gặp rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, phẫu
thuật... Nó góp phần ổn định cuộc sống cho người tham gia bảo hiểm y tế khi họ
ốm đau, bệnh tật, đảm bảo cho họ được khám chữa bệnh và điều trị mà không

21


ảnh hưởng lớn đến chi tiêu của gia đình họ. Bảo hiểm y tế do Nhà nước đứng ra
tổ chức thực hiện. Mới đầu, đối tượng của bảo hiểm y tế mới chỉ là cán bộ công
nhân viên chức làm công ăn lương còn tại chức hay nghỉ hưu, mất sức lao động,
một số đối tượng khác được thực hiện dưới hình thức bắt buộc, sau đó mới triển
khai rộng rãi đến tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Phí bảo hiểm y tế do nhiều bên đóng góp: người lao động, người sử dụng
lao động, nhà nước. Bảo hiểm y tế ra đời góp phần chăm lo sức khoẻ cho mọi
người trong xã hội từ khâu khám chữa bệnh, điều trị đến phẫu thuật. Đồng thời,
bảo hiểm y tế còn nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và nâng cấp các
cơ sở y tế nói chung.
. Bảo hiểm xã hội là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội giữa người
lao động, chủ sử dụng lao động và Nhà nước khi người lao động gặp khó khăn
trong cuộc sống.
Đối tượng của Bảo hiểm xã hội là mọi người lao động không phân biệt
nam, nữ, tôn giáo, dân tộc, nghề nghiệp, thành phần kinh tế... Bảo hiểm con
người trong bảo hiểm xã hội khi triển khai nhằm mục đích thành lập một quỹ
tiền tệ tập trung dưới sự đóng góp của các bên tham gia. Quỹ này được tồn tích
theo thời gian để từ đó trợ cấp, bồi thường hay chi trả cho người lao động khi
không may họ bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp

không lường trước được. Đồng thời nó còn đáp ứng được một số mục đích khác
cho người tham gia bảo hiểm, ví dụ như tạo cho người tham gia một tâm lý thoải
mái, yên tâm khi họ nghĩ rằng họ đã tham gia bảo hiểm, luôn luôn có bảo hiểm
bên cạnh, bảo hiểm sẽ là cứu cánh nếu chẳng may rủi ro tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo hiểm thương mại được hình thành từ sự đóng góp của những
người tham gia bảo hiểm và từ quỹ này dùng để bồi thường cho họ khi họ gặp rủi
ro gây tổn thất. Vì vậy, muốn có một nguồn quỹ đủ lớn, hoạt động của bảo hiểm
thương mại vẫn phải dựa trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Chính vì vậy, bảo

23


hiểm con người trong bảo hiểm thương mại đối tượng và phạm vi rộng hơn rất
nhiều và do đó mục đích cũng rất đa dạng, phong phú. Hơn nữa, bảo hiểm
thương mại còn nhằm mục đích kinh doanh, vì vậy nó phải hạch toán sao cho có
lợi cho công ty bảo hiểm.
Bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại tập trung vào các vấn đề
sau:
- Nó hỗ trợ đắc lực cho hai loại hình bảo hiểm nói trên mà nhiều người
chưa được tham gia
- Nó góp phần ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội
- Nó nhằm mục đích phục vụ cho các chương trình an sinh giáo dục, khởi
nghiệp kinh doanh, cưới hỏi...
Phí bảo hiểm ở đây là hoàn toàn do người tham gia bảo hiểm đóng góp.
Phí này hình thành nên một quỹ bảo hiểm rất lớn, đồng thời các công ty bảo
hiểm lại được tự do đầu tư cho nên lãi suất do đầu tư mang lại để bổ sung vào
quỹ cũng ngày một gia tăng. Chính vì vậy, việc triển khai các nghiệp vụ bảo
hiểm con người trong bảo hiểm thương mại cũng rất có hiệu quả nhưng so với
bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, tính chất nhân đạo và nhân văn của nó còn hạn
chế hơn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status