THỜI XA VẮNG – TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH (DƯỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC) - Pdf 34

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

PHẠM THỊ THU HƯƠNG

THỜI XA VẮNG – TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH
(DƯỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

PHẠM THỊ THU HƯƠNG

THỜI XA VẮNG – TỪ VĂN HỌC ĐẾN ĐIỆN ẢNH
(DƯỚI GÓC NHÌN TỰ SỰ HỌC)
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Hiểu

HÀ NỘI, NĂM 2014



thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm ra một cách đọc” [65;11]. Ngay từ
khi mới ra đời, người ta chủ yếu quan tâm đến Tự sự học văn học, và trong một
thời kì rất dài, ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước, khi nhắc đến Tự sự học
là nghiễm nhiên mặc định nó là Tự sự học văn học. Trên thực tế, Tự sự học văn
học chỉ là một bộ phận phát triển tương đối sớm của Tự sự học nói chung.
Không chỉ cần thiết mở rộng nghiên cứu tự sự trong điện ảnh, mà còn nghiên cứ
tự sự trong nhiều loại hình nghệ thuật khác. Trên thế giới, nghiên cứu tự sự điện
ảnh gần như diễn ra đồng thời với nghiên cứu tự sự văn học, nhưng ở Việt Nam,
tự sự điện ảnh đến nay chưa được quan tâm đúng mức.
Điện ảnh tuy là một bộ môn nghệ thuật sinh sau đẻ muộn nhưng đã
nhanh chóng bước lên đài cao của một bà hoàng nghệ thuật do nó có khả năng
tổng hợp những tinh hoa của các nghệ thuật khác và tự tạo cho mình những
phương tiện diễn đạt riêng với một phong cách riêng. Tuy nhiên trên thực tế
không có một loại hình nào tồn tại một cách độc lập riêng lẻ mà chúng luôn
có sự tương tác, ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong mối quan hệ qua lại ấy thì
văn học và điện ảnh luôn nhận được sự ưu ái đặc biệt đúng như nhà văn, nhà
5


làm phim Cao Hành Kiện (Trung Quốc) đã khẳng định “Điện ảnh cũng là văn
học”.Vì vậy kể từ khi nghệ thuật điện ảnh ra đời đến nay việc chuyển thể
những tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh, cho nó tồn tại ở một đời
sống mới đã trở thành phổ biến, trong đó có nhiều bộ phim đã trở thành kinh
điển. Tuy nhiên phim chuyển thể không bao giờ là “bản sao” của tác phẩm
văn học gốc. Tác phẩm văn học khi đi vào môi trường điện ảnh luôn có những
biến đổi nhất định để phù hợp với ngôn ngữ điện ảnh, phù hợp với phương
thức tự sự của điện ảnh.Chính vì vậy, dưới góc độ Tự sự học nghiên cứu sự
biến đổi tự sự từ văn học tới điện ảnh thông qua hiện tượng phim chuyển thể
sẽ góp phần làm sáng tỏ quan hệ giữa văn học và điện ảnh, quy tắc chuyển
thể, cũng như đặc trưng của tự sự văn học và tự sự điện ảnh.

trong cấu trúc truyện kể như điểm nhìn trần thuật, ngôi kể, phối cảnh trần
thuật …vẫn còn phức tạp chồng chéo gây nhiều tranh cãi đặc biệt là các công
trình quan trọng của ba nhà Tự sự học lớn R.Barthes, G.Genette, T.Todorov
vẫn chưa được dịch thuật một cách hệ thống. Hội thảo Tự sự học đầu tiên do
khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức vào năm 2001 (với 76
bản tham luận của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường đại học và cơ
quan nghiên cứu văn học trên cả nước tham gia) và tiếp đó là việc xuất bản
công trình: Tự sự học –một số vấn đề lí luận và lịch sử (Nxb Đại học sư phạm
Hà Nội, 2003) đã đánh dấu mốc son chính thức ghi nhận sự xuất hiện của Tự
sự học ở nước ta. Sau bảy năm, xuất phát từ nhu cầu lí luận, thực tiễn năm
2008 khoa Ngữ văn tiếp tục tổ chức hội thảo Tự sự học lần thứ với 62 bản
tham luận. Bên cạnh các bài viết giới thiệu lí thuyết Tự sự học ở nhiều
phương diện còn có các bài viết mang tính ứng dụng cao. Hai cuộc hội thảo
đã cho thấy tình hình nghiên cứu Tự sự học ở nước ngoài cũng như ở Việt
Nam. Có thể coi đây là một hoạt động khoa học quan trọng trong việc xây
dựng tiền đề cho ngành Tự sự học ở nước ta.

7


Năm 2010 ban Văn học nước ngoài của Viện văn học đã triển khai thực
hiện đề tài Tự sự học, lí luận và ứng dụng. Công trình khoa học này tập trung
nghiên cứu tự sự từ những vấn đề lịch sử, lí thuyết đến ứng dựng ở một số
nền văn học như Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và chủ
yếu là ở Việt Nam. Một phần các kết quả nghiên cứu đó (Với 10 mục bài
được lựa chọn bao gồm cả hai phần lí thuyết và ứng dụng ) đã được tuyển tập
trong chuyên đề Tự sự học in trong tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm
2010. Có thể khẳng định rằng công trình khoa học của Viện văn học đã góp
phần to lớn tạo nên sự phát triển của ngành khoa học còn khá mới mẻ này.
Hiện nay GS Trần Đình Sử chủ nhiệm một đề tài lớn, đầy đủ và toàn

học vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và triển
khai một cách sâu rộng. Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu công
phu 20 năm (1981-2001) của GS Trần Đình Sử mang tên Thi pháp truyện
Kiều. Công trình Những vấn đề thi pháp của truyện của tác giả Nguyễn Thái
Hòa xuất bản năm 2000. Năm 2008, tác giả Đào Duy Hiệp cho ra mắt tác
phẩm Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại.
Ở quy mô nhỏ hơn lí thuyết Tự sự học đã được các tác giả vận dụng khi
tìm hiểu các tác phẩm trong và ngoài nước in trên các báo, tạp chí và đặc biệt
là in chung trong hai cuốn sách Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử do
nhà xuất bản Đại học Sư phạm phát hành. Ngoài ra lý thuyết Tự sự học cũng
trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận án tiến sĩ đã cho thấy Tự sự
học ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu nước nhà.Tự sự
học là môn khoa học rất phức tạp bao gồm nhiều vấn đề do đó dẫn tới sự
phong phú trong các đề tài nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu có thể chọn nhiều
cách thức khác nhau như chọn một vấn đề trong cấu trúc tự sự (người kể
chuyện, cốt truyện, kết cấu, không gian, thời gian…) hoặc có thể tổng hợp
nhiều vấn đề (nghệ thuật tự sự, thế giới nghệ thuật…).

9


Tuy nhiên nghiên cứu Tự sự học ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở Tự sự
học văn học rất ít đề tài mở rộng nghiên cứu Tự sự học trong các lĩnh vực
khác đặc biệt là Tự sự học điện ảnh. Vì vậy Tự sự học điện ảnh chưa được ý
thức rõ là một môn khoa học riêng biệt, nó chỉ được coi như sự mở rộng của
Tự sự học văn học mà thôi.
2.2. Điện ảnh xuất hiện khi các loại hình nghệ thuật khác như văn
chương, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa, sân khấu đã phát triển đến độ chín.
Vì vậy điện ảnh có cơ hội kế thừa, tiếp thu những phương tiện nghệ thuật sẵn
có đồng thời tự tạo cho mình những kỹ thuật và phương pháp biểu hiện mới,

thuật số 6 năm 2005 tác giả Nguyễn Mai Loan đã đi tới khẳng định “khi chuyển
thể các nhà làm phim phải nỗ lực tìm sự tương đương từ các từ ngữ đến hình
ảnh…phải nắm được phong cách của tiểu thuyết, nhà làm phim phải đưa được
hơi thở của cuộc sống ẩn sâu trong văn bản tự sự lên màn ảnh lớn” [40; 76]
Nhìn từ lí thuyết liên văn bản tác giả Lê Thị Dương có bài “Vấn đề
chuyển thể văn học – điện ảnh từ góc độ liên văn bản” (Tạp chí Nghiên cứu
văn học số 1/1012). Đây là bài viết thể hiện cái nhìn bao quát sâu rộng về
hiện tượng chuyển thể. Cung cấp cho người đọc những hiểu biết căn bản về
hiện tượng chuyển thể là gì, các cấp độ của chuyển thể, montage – thủ pháp
đặc trưng trong điện ảnh.
Ngoài ra chuyển thể văn học sang điện ảnh đã trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều công trình khoa học, trong các luận án, luận văn, khóa luận tốt
nghiệp tiêu biểu như: luận án “Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh” của
Phan Bích Thủy, ĐHSP thành phố HCM; luận văn thạc sĩ “Vấn đề chuyển thể
tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự) của Đỗ Thị Ngọc
Diệp, ĐH KHXH&NV; Trong khóa luận tốt nghiệp“Bước đầu tìm hiểu hoạt
động chuyển thể tác phẩm văn học trong sáng tạo điện ảnh (Khảo sát qua một
số bộ phim Việt Nam đương đại) của Nguyễn Thu Hồng, ĐHSPHN…

11


2. 3. Tác phẩm “Thời xa vắng” và phim chuyển thể cùng tên
Lê Lựu viết Thời xa vắng từ 1984 nhưng đến 1986 tác phẩm mới ra mắt
độc giả. Từ khi ra đời đến nay tác phẩm đã được tái bản nhiều lần. Ban đầu nó
là đối tượng tranh luận sôi nổi của giới phê bình sau đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của khoa học chuyên sâu. Theo dõi qúa trình nghiên cứu nhìn
chung Thời xa vắng được giới chuyên môn đánh giá cao. Họ đều khẳng định
những đóng góp lớn lao của Lê Lựu và vị trí quan trọng của tác phẩm trong
tiến trình vận động và phát triển của văn xuôi nước nhà thời kì đổi mới. Tiêu

tâm đến vấn đề người trần thuật của cuốn tiểu thuyết:“…lúc nào nó cũng lắm lời,
lời kể của nó đã lùa thùa, dài dòng mà cái luận đề lộ rất rõ…” [34; 66].
Bên cạnh đó giọng văn trần thuật cũng được các nhà nghiên cứu quan
tâm. Tác giả Thiếu Mai cho rằng “cách nhìn thấu đáo của anh, tấm lòng thiết
tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn, giọng văn trầm tĩnh vừa giữ được
vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan không thêm bớt tô vẽ đặc biệt là không
cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức thuyết phục
hấp dẫn của tác phẩm” [51;344]. Cũng nhận xét về giọng văn PGS La Khắc
Hòa lại tìm thấy ở tác phẩm chính là giọng giễu nhại rất độc đáo. Ông viết
như sau: “Nó không cần sử dụng những thủ pháp lạ hóa quen thuộc như
phóng đại hay vật hóa hình ảnh con người để làm nổ ra tiếng cười. Nó chỉ đơn
giản thuật lại những chuyện “thật như đùa” mà đã có thể tạo ra được một hình
tượng giễu nhại. Nhờ thế lời văn của Thời xa vắng khi thì như bông đùa lúc
lại xót xa, chì chiết nhưng giễu nhại bao giờ cũng là giọng chủ đạo của nó”
[34;67]. Mặc dù các ý kiến khác nhau nhưng tựu chung lại đều thống nhất cho
rằng Thời xa vắng là một tác phẩm “đi tìm lại những giá trị từng bị đánh mất,
từng bị lãng quên” là sự khái quát lịch sử bằng số phận của một cá nhân. Tác
phẩm xứng đáng đưa Lê Lựu trở thành người tiên phong trong quá trình đổi
mới nền văn học dân tộc.
13


Gần đây một số báo cáo khoa học, luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu các khía
cạnh của cuốn tiểu thuyết như: Thời xa vắng của Lê Lựu và tiến trình đổi mới văn
xuôi Việt Nam sau 1975 (Thái Thị Mỹ Bình, ĐHSPHN), Đối thoại trong ba tiểu
thuyết: Thời xa vắng (Lê Lựu), Bến không chồng (Dương Hướng) và Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh) của Phạm Thị Thúy Vinh, ĐHSPHP…
Nhận ra được ý nghĩa sâu sắc ấy của tác phẩm đạo diễn Hồ Quang
Minh đã quyết tâm chuyển thể cho nó sống đời sống thứ hai ở lĩnh vực điện
ảnh. Đồng thời cũng là để hoàn thiện bộ ba phim nói về chủ đề thân phận con

3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Thời xa vắng – Từ văn học đến điện ảnh (Dưới
góc nhìn Tự sự học), chúng tôi nhằm hướng đến mục đích sau:
Trước hết chúng tôi muốn làm sáng rõ khả năng vận dụng Tự sự học
vào nghiên cứu hiện tượng phim chuyển thể nói riêng và nghiên cứu điện ảnh
nói chung, sơ bộ giới thiệu Tự sự học điện ảnh.
Bên cạnh đó chúng tôi hướng đến chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa văn
học và điện ảnh thông qua khảo sát hiện tượng phim chuyển thể.
Không những chỉ ra sự tương đồng, khác biệt trên phương diện tự sự
của tiểu thuyết Thời xa vắng và phim chuyển thể cùng tên mà còn thấy được
quy tắc chuyển đổi cấu trúc, phương thức tự sự từ tiểu thuyết sang điện ảnh.
Từ đó lí giải sơ bộ sự thành công của Thời xa vắng ở cả phương diện tiểu
thuyết lẫn điện ảnh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự chuyển biến trên phương diện
tự sự từ văn học sang điện ảnh của Thời xa vắng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu

15


Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn
Lê Lựu (xuất bản năm 1986, Nxb Tác phẩm mới) và bộ phim Thời xa vắng
của đạo diễn Hồ Quang Minh (sản xuất năm 2005).
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
4.1. Phương pháp nghiên cứu Tự sự học
Để tìm hiểu sự chuyển biến phương thức tự sự của Thời xa vắng từ tiểu

Từ lí thuyết chung chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu một tác phẩm cụ thể là
Thời xa vắng. Lí giải được thành công của Thời xa vắng trên cả phương diện
văn học lẫn điện ảnh.
5.2. Những khó khăn khi thực hiện đề tài
Lí thuyết Tự sự học vô cùng phức tạp, có Tự sự học kinh điển và Tự sự
học hậu kinh điển. Vận dụng lí thuyết Tự sự học vào tìm hiểu một tác phẩm
cụ thể đòi hỏi phải có thao tác khoa học tương đối tỉ mỉ, nhiều khi yêu cầu
lượng hóa thành một số thông số.
Tự sự học điện ảnh là một vấn đề còn rất xa lạ với người Việt Nam, cho
nên người viết thiếu lí thuyết và ứng dụng dẫn đường, đây là trở ngại lớn
trong quá trình thực hiện đề tài.
Nghiên cứu liên ngành là hoạt động vốn không quen với người viết,
hơn nữa khả năng về ngoại ngữ cũng rất hạn chế nên gặp rất nhiều khó khăn
khi thực hiện đề tài.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo luận văn triển
khai trên các chương sau:
Chương 1: Khái quát về Tự sự học văn học và Tự sự học điện ảnh (26 trang)
Chương 2: Người trần thuật trong Thời xa vắng (từ văn học đến phim
chuyển thể) (38 trang)
Chương 3: Thời gian – không gian trong Thời xa vắng (từ văn học đến
phim chuyển thể) (43 trang)

17


18


PHẦN NỘI DUNG

giả do đó tư tưởng, tình cảm của nhà văn trong tác phẩm tự sự được thể hiện
qua các sự kiện và biến cố. Vì vậy người đọc có cảm giác rằng hiện thực được
phản ánh trong tác phẩm tự sự là tất cả những gì tồn tại xảy ra bên ngoài nhà
văn, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. Nguyên tắc phản
ánh hiện thực trong tính khách quan đã đem đến cho tác phẩm tự sự khả năng
bao quát, chiếm lĩnh hiện thực trong không gian và thời gian một cách linh
hoạt.Thời gian đó có thể kéo dài cả đời người nhưng cũng có thể được co lại
trong vài ngày, vài tháng hay vài năm của nhân vật. Không gian của tác phẩm
cũng có thể hạn hẹp hoặc mở rộng tới vô cùng từ Đông sang Tây, từ đồng
bằng tới miền ngược, từ địa ngục tới thiên đàng. Bức tranh hiện thực toàn
cảnh mà tác phẩm tự sự mang lại cũng bộn bề, phức tạp, đa dạng như chính
bản thân sự tồn tại của đời sống con người.Từ những vấn đề khuôn vàng
thước ngọc của triết học, đạo đức đến những lĩnh vực bao la rộng mở của
khoa học nghệ thuật; từ những cuộc giao tranh đẫm máu của lịch sử đến
những hình ảnh rực rỡ sắc màu của thiên nhiên; từ những vinh quang chói lọi
của bậc đế vương đến kết cục bi thảm của một thân phận thấp hèn…tất cả đều
được ngòi bút của các tác giả tái hiện lại vô cùng sinh động trên trang giấy.
Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi
của con người làm cho tác phẩm tự sự “trở thành câu chuyện về ai đó hay về
một cái gì đó”[23;358]. Cho nên tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện và
gắn liền với cốt truyện là hệ thống nhân vật được khắc họa sinh động hơn hẳn
nhân vật trong tác phẩm kịch và tác phẩm trữ tình. Cốt truyện đó được thêu
dệt nên bởi “hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm chi tiết
sự kiện, xung đột, chi tiết nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách,

20


chi tiết nội thất, ngoại cảnh, phong tục, đời sống, văn hóa, lịch sử, lại còn có
cả những chi tiết liên tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật

nên một điển hình nghệ thuật từ nhiều con người, nhiều bối cảnh thực khác
nhau. Trong vô vàn những gương mặt của cuộc sống đời thường, giữa muôn
ngàn những biến cố của lịch sử tác giả chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo để tái
hiện lại bức tranh đời sống. Nói về điều này L.Tônxtôi đã chỉ ra rằng “cần
phải quan sát nhiều người cùng loại với nhau để xây dựng nên một kiểu người
nhất định…nếu miêu tả một con người mà chỉ lấy một người thật làm mẫu thì
kết quả sẽ là một cái gì đơn nhất, ngoại lệ và không thú vị”[14;194]. Đọc các
sáng tác của Nam Cao hẳn chúng ta không thể quên một Chí Phèo lưu manh,
một Lão Hạc nhân hậu, một giáo Thứ phải chịu cảnh “sống mòn”…Mỗi
người một tính cách riêng, một số phận riêng nhưng họ đều là những điển
hình của văn học từ trang sách bước ra ngoài đời. Và điều đặc biệt là những
con người đó được nhà văn xây dựng nên từ những nguyên mẫu trong cuộc
đời. Họ là hình ảnh của những người dân làng Đại Hoàng nghèo khổ quê
hương ông hay chính bản thân tác giả.
Không chỉ là một phương thức tái hiện đời sống,tự sự còn được hiểu là
cách kể, cách trần thuật trong văn học.Trong tác phẩm tự sự trần thuật có vai
trò đặc biệt quan trọng, nó trở thành nhân tố tổ chức, tạo dựng nên thế giới
nghệ thuật.Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi gọi là người trần thuật.
Sự tồn tại này là một ước lệ nghệ thuật cho bất cứ một hình thức tự sự nào.
Đây là loại người chứng kiến và giải thích về những gì đã xảy ra, là cầu nối
để tạo nên mối quan hệ khăng khít giữa nhân vật - người kể chuyện - độc giả.
Muốn hiểu một sự vật nào đó người ta thường kể chuyện về sự vật đó. Bản
chất của tự sự được hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là quá trình phát ra
đơn phương trong quá trình giao tiếp. Văn bản tự sự là cụm thông tin được
phát ra và tự sự có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau như
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, điện ảnh…Tự sự nằm trong bản chất của con

22




ngành nghiên cứu tự sự từ trước tới nay có được cái tên chính thức và trở
thành ngành khoa học nghiên cứu có tính độc lập vì nội hàm văn hóa của
nó.Cũng từ đó lí luận tự sự đã trở thành vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn
học. Đồng thời “nó trở thành một bộ môn nghiên cứu liên ngành có tính chất
quốc tế và có vị trí ngày càng quan trọng trong khoa văn học và các khoa học
nhân văn”[65;12]. Lí thuyết Tự sự học ngày nay đã cung cấp bộ công cụ cơ
bản, ưu việt giúp cho chúng ta đi sâu vào nghiên cứu tất cả các lĩnh vực của
đời sống như giao tiếp, truyền thông, văn hóa. Do đó nó trở thành bộ phận cấu
thành hệ hình lí luận hiện đại.
Đặt nền móng cho những cơ sở lí thuyết ban đầu của Tự sự học là
trường phái hình thức Nga với một số tên tuổi tiêu biểu như V.Shklovski
(1893-1984), B.Eikhembaum (1886-1959), B.Tomachevski (1890-1957)…
Mặc dù không có chủ đích tìm hiểu riêng về nghệ thuật trần thuật song trong
khi chú ý đến “thủ pháp” nghệ thuật các nhà hình thức Nga bước đầu đề cập
đến nhiều phương diện cơ bản của lí thuyết tự sự, cụ thể là về các thành phần
và chức năng của tự sự.
Về kết cấu tác phẩm V.Shklovski lưu ý đến thủ pháp đóng khung và
thủ pháp xâu chuỗi trong văn tự sự. Nhìn từ góc độ hình thức trần thuật
B.Eikhenbaum làm rõ sự khác biệt giữa cấu trúc truyện ngắn và cấu trúc tiểu
thuyết. Với tiểu luận mang tên Hệ chủ đề B.Tomachevski là một trong những
người đầu tiên đi sâu nghiên cứu các thủ pháp của cốt truyện. Ông đã phân
biệt khái niệm truyện kể (fabula) và cốt truyện (sujet) trong tác phẩm tự sự.
Khi nói đến thời gian trần thuật tác giả phân biệt thời gian của truyện kể
(khoảng thời gian diễn ra các biến cố) và thời gian trần thuật (khoảng thời
gian cần thiết để cảm nhận tác phẩm). Ngoài ra nhiều thủ pháp trong nghệ
thuật tổ chức thời gian giả (chữ dùng của G. Genette sau này) cũng được tác
giả đề cập như trì hoãn, lặp lại, đảo ngược thời gian…V.Propp nghiên cứu cấu

24

25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status