Luận văn các di tích thờ thần đồng cổ ở Việt Nam và những giá trị lịch sử văn hóa - Pdf 37

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________________________________

TRẦN VĂN TÙY

CÁC DI TÍCH THỜ THẦN ĐỒNG CỔ Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
______________________________________

TRẦN VĂN TÙY

CÁC DI TÍCH THỜ THẦN ĐỒNG CỔ Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Khảo cổ học
Mã số: 60 22 03 17

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Bùi Văn Liêm

Hà Nội - 2015



chương trình.
Ở mức độ nào đó luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
được Thầy/Cô, các anh chị giáo và các bạn đồng nghiệp tận tình giúp đỡ.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày

tháng
Học viên

Trần Văn Tùy

96

năm 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Kết quả và đóng góp của luận văn............................................................. 5
7. Bố cục của luận văn................................................................................... 5
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƯỠNG THỜ THẦN ĐỒNG CỔ
VÀ CÁC DI TÍCH THỜ THẦN ĐỒNG CỔ Ở VIỆT NAM ...................... 7
1.1. Lịch sử thờ thần Đồng Cổ qua các nguồn tư liệu .............................. 7
1.2. Tổng quan về các di tích thờ thần Đồng Cổ ở Việt Nam. ............... 14
* Tiểu kết Chương 1 .................................................................................. 23

98


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
BQLDTDT : Ban Quản lý Di tích và Danh thắng
BTLSQG

: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

ĐVSKTT

: Đại Việt sử ký toàn thư

NPHM

: Những phát hiện mới

Nxb

: Nhà xuất bản

SVHTTDL : Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
UBND

: Ủy ban Nhân dân

VKCH

: Viện Khảo cổ học


Goole Earth
Sơ đồ 1: Mặt bằng di tích Núi và đền Đồng Cổ ở Đan Nê và các hố khai quật
năm 2007
Sơ đồ 2: Mặt bằng di tích miếu Đồng Cổ ở Nguyên Xá và vị trí các hố thám
sát và khai quật năm 2007

100


DANH MỤC BẢN VẼ, BẢN ẢNH VÀ BẢN DẬP HOA VĂN

Phụ lục 3: Bản vẽ di tích, di vật
Bản vẽ 1: Lớp văn hóa Đông Sơn ở hố H4
Bản vẽ 2: Mặt bằng điện Chính tẩm ở hố H2
Bản vẽ 3: Mặt bằng hố khai quật 07.ĐĐC. H3
Bản vẽ 4: Một số kiểu miệng đồ gốm khai quật tại di tích đền Đồng Cổ Đan Nê
Bản vẽ 5: Một số hiện vật giai đoạn lịch sử
Bản vẽ 6: Mặt chiếu đứng lò nung hố khai quật 07.MĐC.H2
Bản vẽ 7: Mặt cắt lò nung hố khai quật 07.MĐC.H2
Bản vẽ 8: Mặt cắt lò nung hố khai quật 07.MĐC.H2
Bản vẽ 9: Mặt bằng hố khai quật 07.MĐC.H6
Bản vẽ 10: Gạch thời Hán
Bản vẽ 11: Ngói thời Nguyễn
Bản vẽ 12: Mảnh tượng uyên ương thời Trần
Bản vẽ 13: Mảnh bát thời Trần
Bản vẽ 14: Mảnh lư hương thời Trần
Bản vẽ 15: Vò sành thời Trần
Phụ lục 4: Bản ảnh
Phụ lục 4.1: Di tích đền Đồng Cổ ở Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định,
tỉnh Thanh Hóa)

Bản ảnh 27: Ngói diềm mái
Bản ảnh 28: Ngói trang trí hoa chanh
Bản ảnh 29: Khối trang trí tượng rồng
Bản ảnh 30: Khối trang trí tượng chim
Bản ảnh 31: Bình vôi
Bản ảnh 32: Mảnh trôn bát sứ men trắng hoa lam có đề chữ “Đại Minh Thành
Hoá niên chế”
Bản ảnh 33: Lư sành
Bản ảnh 34: Tiền đồng niên hiệu Chính Hoà thông bảo
Phụ lục 4.2: Di tích đền Đồng Cổ ở Mỹ Đà (xã Hoằng Minh, huyện Hoằng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa)
Bản ảnh 35: Toàn cảnh di tích đền Đồng Cổ ở Mỹ Đà

102


Bản ảnh 36: Nghi môn đền Đồng Cổ ở Mỹ Đà
Bản ảnh 37: Bình phong
Bản ảnh 38: Nghinh môn
Bản ảnh 39: Nhà Tiền tế
Bản ảnh 40: Trang trí kìm nóc
Bản ảnh 41: Trang trí nóc nhà Tiền tế
Bản ảnh 42: Hậu cung
Bản ảnh 43: Bộ lư hương
Bản ảnh 44: Bài trí gian giữa nhà tiền tế
Bản ảnh 45: Ban thờ Phương Dung công chúa
Bản ảnh 46: Bài trí hậu cung
Bản ảnh 47: Chi tiết kết cấu mái hậu cung
Bản ảnh 48: Phù điêu mặt trống đồng
Bản ảnh 49: Sắc phong đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

Bắc Từ Liêm, Hà Nội)
Bản ảnh 73: Tam quan di tích miếu Đồng Cổ Nguyên Xá
Bản ảnh 74: Bình phong
Bản ảnh 75: Nhà tiền tế
Bản ảnh 76: Hậu cung
Bản ảnh 77: Trang trí mái nhà tiền tế
Bản ảnh 78: Trang trí đầu hồi nhà tiền tế
Bản ảnh 79: Chi tiết vì nóc nhà tiền tế
Bản ảnh 80: Vì nách nhà tiền tế
Bản ảnh 81: Vì nóc nhà giải vũ
Bản ảnh 82: Hoành phi, cửa võng nhà giải vũ
Bản ảnh 83: Hoành phi: “Linh Từ Quốc lễ”
Bản ảnh 84: Cuốn thư
Bản ảnh 85: Bài trí tiền tế
Bản ảnh 86: Hương án
Bản ảnh 87 - 88: Sắc phong năm Thiệu Trị thứ 6 - 1846 và Khải Định năm
thứ 9 - 1924
Bản ảnh 89: Trống đồng (bản phục dựng) tại hậu cung
Bản ảnh 90 - 91: Mộ huyệt đất (07.MĐC.H5.M1)
Bản ảnh 92: Mộ lon sành (07.MĐC.HV5.M2)

104


Bản ảnh 93: Mộ vò (07.MĐC.H.M3)
Bản ảnh 94: Lò nung phát hiện trong hố khai quật H2
Bản ảnh 95: Khoang sấy vật liệu
Bản ảnh 96 - 97: Bầu đốt
Bản ảnh 98 - 99: Hố thao tác lò
Bản ảnh 100: Đống tro than

Bản ảnh 127: Bài trí gian giữa nhà tiền tế
Bản ảnh 128: Cuốn thư ở đại bái
Bản ảnh 129: Phiên bản Trống đồng Đông Sơn tại hậu cung
Phụ lục 4.6: Di tích đình Ngọa Long (phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm,
Hà Nội)
Bản ảnh 130: Nghi môn và bình phong đình Ngọa Long
Bản ảnh 131: Phương đình
Bản ảnh 132: Mặt trước đại đình
Bản ảnh 133: Vì nóc đại đình
Bản ảnh 134: Vì nách đại đình
Bản ảnh 135: Bài trí gian giữa đại đình
Bản ảnh 136: Bia đá niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 4 (1780)
Phụ lục 4.7: Di tích đình Văn Trì (phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)
Bản ảnh 137: Toàn cảnh đình Văn Trì
Bản ảnh 138: Nghi môn đình Văn Trì
Bản ảnh 139: Nhà tiền tế và đại đình
Bản ảnh 140: Trang trí đầu đao và tượng Nghê trên mái nhà tiền tế
Bản ảnh 141: Kìm nóc tòa đại đình
Bản ảnh 142: Trang trí trên nóc tòa đại đình
Bản ảnh 143: Nhà bia
Bản ảnh 144: Vì nóc tòa đại đình
Bản ảnh 145: Vì nách tòa đại đình
Bản ảnh 146: Đầu dư nghệ thuật (phong cách thế kỷ 19)
Bản ảnh 147: Bài trí gian giữa tòa đại đình
Bản ảnh 148: Áo, mũ và long ngai, bài vị thần Đồng Cổ
Bản ảnh 149 - 150: Sắc phong cho thần Đồng Cổ ở đình làng Văn Trì
Phụ lục 4.8: Dấu tích di tích thờ thần Đồng Cổ ở khu vực Rừng Ma Ao Dứa
(thuộc rừng Quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc)

106

1.1. Trống đồng - di vật tiêu biểu, đặc sắc và điển hình của văn hóa Đông
Sơn, nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, phát triển cực thịnh trong thời đại kim khí
ở các tỉnh Bắc Bộ và một số tỉnh Bắc Trung Bộ, có mối giao lưu, tầm ảnh hưởng,
tác động đến các văn hóa đồng/lịch đại trong lãnh thổ Việt Nam và cả khu vực
Đông Nam Á thời cổ. Người Việt cổ thời Đông Sơn - chủ nhân của trống Đông
Sơn đến cư dân Việt hiện đại vẫn quan niệm, trống đồng là vật thiêng, như một
“vũ trụ”, do vậy việc tôn thờ thần Trống đồng đã trở thành tín ngưỡng dân gian
gắn liền với “tâm thức” của người Việt. Hiện nay, chúng ta biết tới bốn di
tích/cụm di tích thờ thần Đồng Cổ, được phân bố ở các địa phương:
Thanh Hóa: gồm di tích Núi và Đền Đồng Cổ ở thôn Đan Nê, xã Yên
Thọ, huyện Yên Định và di tích đền/đình Đồng Cổ ở thôn Mỹ Đà, xã Hoằng
Minh, huyện Hoằng Hóa.
Hà Nội: gồm di tích đền Đồng Cổ ở Đông Xã (nay thuộc cụm 4,
phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, trước kia còn gọi khác là “Kẻ Bưởi”), và
cụm di tích miếu Đồng Cổ, đình Nguyên Xá, đình Ngọa Long và đình Văn
Trì ở phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm.
Ngoài ra, năm 2009, BQLDTDT tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành khảo sát tại
khu rừng Ma Ao Dứa (thuộc rừng Quốc gia Tam Đảo) đã phát hiện dấu tích
nền của di tích thờ Thần Đồng Cổ, đáng chú ý phát hiện một số di vật và kiến
trúc có niên đại từ thời Lý - Trần sang hậu Lê.
Trải qua thời gian tồn tại, hiện nay các di tích đều đã được tôn tạo khang
trang, nên rất khó để hình dung diện mạo từ tư liệu qua các cuộc khảo sát, khai
quật khảo cổ học, những ghi chép trong sử sách và lưu truyền trong dân gian.
1.2. Năm 2007, di tích Núi và Đền Đồng Cổ ở Đan Nê (tỉnh Thanh
Hóa) và di Miếu Đồng Cổ ở Nguyên Xá (Hà Nội) đã được khảo sát, khai quật

1


và nghiên cứu. Kết quả khai quật này đã cung cấp nhiều tư liệu mới để có



- Tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của hội thề Trung hiếu qua các triều đại
phong kiến độc lập tự chủ ở Việt Nam đặc biệt là ở giai đoạn Lý - Trần khi
hội thề trở thành nghi lễ mang tính chất Quốc gia.
- Từ thực trạng di tích, di vật đề xuất những giải pháp về quy hoạch, bảo vệ,
bảo tồn, phát huy giá trị và quảng bá các di tích thờ thần Đồng Cổ ở Việt Nam.
Trong luận văn, tác giả cố gắng tổng hợp, nghiên cứu và đưa ra cái nhìn
tổng thể về lịch sử thờ thần Đồng Cổ và các di tích thờ Thần. Hy vọng luận văn
sẽ có những đóng góp ít nhiều vào công tác tổng hợp, nghiên cứu trống Đông
Sơn, đặc biệt ở khía cạnh lịch sử - văn hóa.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, đã có rất nhiều nghiên cứu về các di tích thờ thần Đồng
Cổ của các học giả. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ tập trung nghiên cứu ở
khía cạnh đơn lẻ về di tích hoặc thần tích của thần Đồng Cổ.
- Về các di tích ở Thanh Hóa: đó là một số bài nghiên cứu về trống
đồng hay ghi chép về chiếc trống đồng đang được thờ trong đền Đồng Cổ
Đan Nê như: “Thần trống ở Đan Nê” của V.Goloubew in trong Tạp chí của
trường Viễn Đông bác cổ (Hà Nội, 1933, tr.345);“Một bài văn đời Tây Sơn
nói về trống đồng, khắc trên biển gỗ, tại miếu thờ thần núi Đồng Cổ (Thanh
Hóa)” của Trần Văn Giáp và Nguyễn Duy Hinh (Tạp chí Khảo cổ học số 5-6,
tháng 6-1970); “Trống đồng trong sử sách” của Nguyễn Duy Hinh (Tạp chí
Khảo cổ học số 13, năm 1974), “Phát hiện về một đền thờ thần Đồng Cổ ở xứ
Thanh”của Đỗ Quang Trọng, Lê Thị Phơ (1998) ...
- Các di tích ở Hà Nội: gồm có các nghiên cứu về di tích thờ Thần
Đồng Cổ như: “Thăng Long - Hà Nội” của Lưu Minh Trị, Hoàng Tùng
(1999), “Hà Nội nghìn xưa” của Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975),
Đình và Đền Hà Nội” của Vũ Thế Long (2005), “Hội làng Hà Nội” của Lê
Trung Vũ (2006), Nguyễn Duy Hinh và Nguyễn Vinh Phúc với các nghiên
cứu “Các thành hoàng và tín ngưỡng Thăng Long - Hà Nội” (2009)...

đó, có sự liên hệ với các thời kỳ trước để làm rõ quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển thông qua các nguồn tư liệu còn lưu trữ.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn sử dụng các phương pháp khảo cổ học truyền thống như:
thống kê, phân loại loại hình học, miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật điển
hình, phân tích so sánh di tích, di vật khảo cổ học; Triệt để tôn trọng phương
pháp địa tầng trong điều tra, thám sát và khai quật khảo cổ học. Đây là các
phương pháp chính của luận văn.
5.2. Sử dụng các phương pháp đa ngành như: lịch sử kiến trúc, lịch sử
mỹ thuật, dân tộc học, hán nôm, địa lý, địa chất... Ngoài ra, trong một số
trường hợp cụ thể luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh loại
hình các di tích và di vật để thấy được tính đồng đại và lịch đại của các di tích
khảo cổ học trong từng di tích, từng vùng.
6. Kết quả và đóng góp của luận văn
Luận văn là chuyên khảo đầu tiên về các di tích thờ thần Đồng Cổ ở
Việt Nam.
- Đóng góp trước hết của luận văn là tập hợp, hệ thống hoá và phân loại
một cách đầy đủ về các di tích và di vật. Thông qua phân tích, so sánh và xử
lý tư liệu, luận văn phác thảo quá trình hình thành và tồn tại của các di tích
thờ thần Đồng Cổ.
- Tìm hiểu sự hình thành, nội dung, ý nghĩa của Hội thề Trung hiếu qua
các triều đại phong kiến độc lập tự chủ ở Việt Nam, đặc biệt là trong các triều
đại Lý - Trần.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu cho
việc nghiên cứu, tìm hiểu về tín ngưỡng thờ thần Đồng Cổ ở Việt Nam và lễ
hội được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ Hội thề Trung hiếu năm xưa vẫn

đồng đã trở thành một tín ngưỡng dân gian. Thần Đồng Cổ (tên gọi khác của
Trống đồng) là vị thần tối linh có công trong việc giữ yên bờ cõi, ổn định và
trường tồn của đất nước, dân tộc từ thời các vua Hùng. Công tích của thần đã
được lưu truyền trong các tác phẩm: “Đại Việt sử ký Toàn thư”, “Đại Nam
nhất thống chí”, “Việt Điện U Linh”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Đại Việt thông
sử”, “Dư địa chí” “Tam Thai sơn linh tích”...
Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép: “núi Đồng Cổ có tên nữa là núi
Khả Lao ở cách huyện Yên Định 16 dặm về phía tây; núi nổi lên ba ngọn đá cao
thấp liền nhau, như hình dáng ba vì sao, nên lại gọi là núi Tam Thai. Phía tả có
đền thần, trong đền có một cái trống bằng đồng, nặng chừng 100 cân, đường
kính phỏng 2 thước 1 tấc, chiều cao phỏng 1 thước 5 tấc, một mặt trống rỗng,
một mặt có chín vòng tròn, ở giữa mặt trống có cái rốn tròn, chung quang lưng
trống là hình nồi văn chữ “vạn”, bên cạnh có văn chữ như hình văn tự khoa
đẩu. Tương truyền cái trống này chế từ thời Hùng Vương” [66, tr 297].
Sách “Lĩnh Nam chích quái” cũng ghi lại: minh chủ cảm ứng linh đức
đại vương vốn là thần núi Đồng Cổ, núi này nằm tại xã Đan Nê Thượng,
huyện Yên Định [36].

7


Đến năm 983 (Tống Thái Bình hưng quốc năm thứ 8), Thập đạo tướng
quân Lê Hoàn đem quân đi đánh giặc Chiêm ở phía Nam. Khi đến sông Bà
Hòa (thuộc huyện Tĩnh Gia ngày nay) trời nổi mưa to gió lớn, thuyền bè
không đi được, Lê Hoàn phải cho dừng binh chờ đợi. Thần Đồng Cổ báo
mộng xin giúp sức. Tỉnh dậy, Lê Hoàn liền chắp tay lễ bái thần, bỗng nhiên
trời quang mây tạnh, sóng gió trở lại bình yên, thuyền bè đi lại dễ dàng. Lê
Hoàn cho tiến quân gấp, bất ngờ đánh vào trại địch, trận này quân ta thắng
lớn. Khi Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, ông đã về đền Đồng Cổ ở làng Đan Nê
làm lễ tạ thần [9, tr 136].

nhiên thắng lớn. Lúc khải hoàn về qua bến Trường Châu, Thái tử đừng chân
vào đền lễ tạ thần và xin được rước thần về Kinh đô giữ nước hộ dân. Còn
đang băn khoăn chưa biết chọn nơi nào mà xây cho được tốt lành, thì ngay
đêm ấy Thái tử lại được thần báo mộng “xin lập đền ở bên hữu trong đại
thành, sau chùa Thánh Thọ”, Thái tử theo lời, cho hưng công xây dựng,
không bao lâu đền xây dựng xong (nay thuộc phố Thụy Khê, phường Bưởi,
thành phố Hà Nội) [41].
Khi Lý Thái Tổ qua đời (1028), Thái tử lên ngôi Hoàng đế, tức là Lý
Thái Tông, thần lại báo mộng là “Ba vị vương em vua (Vũ Đức, Đông Chinh,
Dực Thánh) có âm mưu khởi loạn để giành ngôi, xin nhà vua kịp đề phòng”.
Tỉnh giấc, đến sáng mới thấy việc xảy ra như lời thần báo, nhà vua liền sai Lê
Phụng Hiểu chế ngự, việc trong nhà dẹp yên. Vua xuống chiếu phong thần là
“Thiên hạ minh chủ”.
Về sự kiện này, thần tích làng Đông Xã còn lưu giữ cũng ghi lại: Thần
vốn là tinh túy được kết tinh từ khí hạo thiên trên núi Đồng Cổ. Xưa khi Lý
Thái Tông làm Thái tử, Chiêm Thành từ bỏ lễ tiết, bề tôi bị xâm lấn cướp bóc
các quận, bên ải biên thư cấp báo. Thái Tổ bèn xuống chiếu đình nghị Thái
Tông làm Bình Nam đại Đô đốc, tấn phong làm Khai Hoàng Vương, dẫn đầu
48 vị Đại tướng, 168 doanh sĩ tốt, thủy bộ hơn 10 vạn, hàng trăm ngựa chiến,
3000 chiến thuyền, đội quân dũng mãnh xuất phát từ trạm Hoàng Mai, đến đêm

9


thì tới Nam Tương tức ở Châu Thành thì xin nghỉ lại, ở những nơi quan quân đi
qua nhân dân địa phương đều đã chuẩn bị tiếp đón và gửi tặng lễ vật. Đêm ấy,
quãng canh Ba, khi Đế ngồi ngủ trong trướng mộng thấy một một người dáng
hình vạm vỡ, thân mang áo ra trận, tay cầm bảo kiếm nói với vua rằng: mặc áo
giáp tức là sơn thần núi Đồng Cổ, nay nghe Thánh giá đi chinh chiến phương
Nam, nguyện xin được theo để giết giặc lập công. Đế nghe lời nói quả quyết


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status