Tiểu luận Nội dung các quyền của người biểu diễn - pdf 13

Download Tiểu luận Nội dung các quyền của người biểu diễn miễn phí



MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU . . 1
Chương I. Những lý luận chung về quyền của người biểu diễn . . 2
 
1. Quyền của người biểu diễn 2
2. Khái niệm người biểu diễn . . 2
3. Lý do bảo hộ quyền của người biểu diễn . 3
4. Cuộc biểu diễn được pháp luật bảo hộ . 5
Chương II. Nội dung các quyền của người biểu diễn . 7
Chương III. Các giải pháp, kiến nghị . 11
KẾT LUẬN. .13
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38556/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

LỜI MỞ ĐẦU
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 07 năm 2006, là luật quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về quyền tác giả cũng như những quy định xung quanh về quyền này thật sự là cần thiết cho mỗi chúng ta, trong đó đặc biệt là quyền của người biểu diễn. Vậy, quyền của người biểu diễn là gì ? Tại sao lại phải bảo hộ quyền của người biểu diễn ? Nó có liên quan như thế nào với quyền tác giả ?
Xuất phát từ những vấn đề đó, tác giả xin phép được trình bày nghiên cứu với đề tài: “Nội dung các quyền của người biểu diễn”.
Bố cục của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Những lý luận chung về quyền của người biểu diễn
Chương II: Nội dung các quyền của người biểu diễn
Chương III: Các giải pháp, kiến nghị
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BIỂU DIỄN
1/- Quyền của người biểu diễn:
Quyền của người biểu diễn là loại hình quyền được hầu hết luật pháp các quốc gia, trong đó có Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, tại Việt Nam do tính chất phức tạp của loại hình quyền này, cũng như do nhận thức của các chủ thể có liên quan còn hạn chế nên công tác bảo hộ quyền của người biểu diễn gặp nhiều khó khăn. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ quyền của người biểu diễn, các chủ thể liên quan mà trước hết là người biểu diễn cần nắm vững các quy định pháp luật về quyền của người biểu diễn, cũng như lý giải được tại sao pháp luật công nhận quyền của người biểu diễn và điều kiện của người biểu diễn được bảo hộ.
2/- Khái niệm người biểu diễn:
Một tác phẩm có thể đến với công chúng bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng thông qua người biểu diễn với sự cảm thụ và thể hiện sáng tạo của mình thì tác phẩm trở nên sinh động và có sức truyền thụ tới công chúng nhanh nhất. Chính vì vậy, dù các hình thức giải trí ngày càng đa dạng nhưng số lượng người biểu diễn không ngừng gia tăng và nền công nghiệp biểu diễn vẫn không ngừng phát triển. Người biểu diễn là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần truyền bá, lưu giữ và phát triển các tác phẩm có giá trị, do đó pháp luật đã công nhận và bảo hộ các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của mình.
Quy mô và tính chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của người biểu diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn như nhạc công độc tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu diễn cùng tham gia như một bộ phim, một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu diễn lớn như vậy thường cần có sự hợp tác của rất nhiều người nhưng chỉ những người trực tiếp trình diễn, thể hiện tác phẩm mới được coi là người biểu diễn và về nguyên tắc họ là chủ sở hữu quyền đầu tiên đối với cuộc biểu diễn.
Những ai được coi là người biểu diễn được quy định rõ tại điều 3 (a) Công ước quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (Công ước Rome): “Người biểu diễn là các diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và các người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày hay biểu diễn khác các tác phẩm văn học, nghệ thuật”. Trong Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT) năm 1996, khái niệm người biểu diễn được mở rộng, ngoài những chủ thể tương tự được liệt kê trong Công ước Rome, người biểu diễn còn bao gồm người trình bày các hình thức thể hiện dân gian. Giống như mọi khái niệm pháp lý, khái niệm người biểu diễn không chỉ biến đổi theo thời gian mà còn có những khác biệt theo phạm vi lãnh thổ. Pháp luật các nước tuỳ từng trường hợp điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và kỹ năng lập pháp đã có những điều chỉnh trong việc đưa ra khái niệm người biểu diễn và cuộc biểu diễn, cũng như điều kiện để được bảo hộ quyền của người biểu diễn. Trên cơ sở khái niệm người biểu diễn của Công ước Rome, Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam liệt kê các tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam, trong đó quy định trực tiếp người biểu diễn gồm: “diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật”.
3/- Lý do bảo hộ quyền của người biểu diễn:
Không khó để nhận ra người biểu diễn đã đóng góp không nhỏ sức sáng tạo trong quá trình biểu diễn các tác phẩm, vì vậy các công ước quốc tế, cũng như luật pháp các quốc gia đã thừa nhận và bảo hộ quyền của người biểu diễn. Tuy nhiên, mức độ bảo hộ của các nước không đồng nhất. Một số nước đã coi cuộc biểu diễn là một sản phẩm sáng tạo độc lập và người biểu diễn hưởng các quyền riêng biệt. Ví dụ, Luật Bản quyền, thiết kế và sáng chế năm 1988 của Anh quy định Quyền của người biểu diễn: “độc lập với bất cứ quyền tác giả, quyền nhân thân đối với tác phẩm được biểu diễn hay bất kỳ bộ phim, bản ghi âm, chương trình phát sóng, hay chương trình cáp nào có trong buổi biểu diễn và bất kỳ quyền và nghĩa vụ nào khác …” Điều 7.1 Luật Bản quyền Đài Loan cũng khẳng định người biểu diễn trình diễn tác phẩm hay các thể hiện dân gian được bảo hộ độc lập. Việc bảo hộ quyền của người biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. Trong khi nhiều nước khác nhận định người biểu diễn chỉ đơn thuần trình diễn lại tác phẩm, mức độ sáng tạo thấp hơn so với các tác phẩm thông thường, do đó cho người biểu diễn được hưởng quyền đối với buổi biểu diễn của mình ở cấp độ thấp hơn dưới dạng quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi tắt là quyền liên quan). Ví dụ, tại Mục II Chương II Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về nội dung, giới hạn quyền và thời hạn bảo hộ quyền liên quan đã liệt kê các đối tượng được bảo hộ quyền liên quan, trong đó Quyền của người biểu diễn được quy định tại Điều 29.
Dù cuộc biểu diễn được bảo hộ như một sản phẩm sáng tạo độc lập hay như một đối tượng của quyền liên quan, việc bảo hộ quyền của người biểu diễn là rất cần thiết. Bởi sự phát triển của công nghiệp ghi âm, công nghiệp điện ảnh và đặc biệt gần đây là Internet đã giúp người biểu diễn định hình, sao chép và truyền phát cuộc biểu diễn của mình tới đông đảo công chúng một cách nhanh chóng, nhưng cũng chính những bản sao cuộc biểu diễn đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng kiểm soát công chúng tiếp cận với cuộc biểu diễn. Nếu như đối với buổi biểu diễn trực tiếp chỉ cần thông qua kiểm soát vé vào cửa là có thể khống chế được công chúng tiếp cận buổi biểu diễn, thì nay với vô số bản sao băng từ hay bản lưu dưới dạng điện tử, khả năng kiểm soát v
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status