VẬN DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHIẾN TRAN NHÂN dân TRONG sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo về tổ QUỐC HIỆN NAY - Pdf 37

Vận dụng t tởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
===========================
Mở đầu
T tởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nớc ta, đồng
thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con ngời. Mặc dù, trong toàn bộ hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc không bàn một cách cụ thể về các khái niệm,
phạm trù, hay những quy luật nh các t tởng triết học trong lịch sử nhân loại
cũng nh triết học Mác-Lênin; nhng ẩn chứa những nội dung thể hiện trình độ
và phơng pháp t duy triết học sâu sắc, thể hiện sự nhất quán một thế giới quan,
một nhân sinh quan rất triết học của Hồ Chí Minh.
Kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo những t tởng của nhân loại đặc
biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã có những đóng góp to lớn vào kho tàng t tởng nhân loại , làm phong phú
thêm chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng trên rất nhiều vấn đề, trong đó có t tởng
của Ngời về chiến tranh nhân dân. Đây là một trong những di sản quý báu của
Ngời để lại cho dân tộc ta cũng nh toàn thể các dân tộc thuộc địa, bị áp bức,
bóc lột đứng lên giành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng và bảo vệ
vững chắc nền tự do độc lập.
1. T tởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân.


2

1.1. C s hỡnh thnh t tng H chớ Minh v chin tranh nhõn
dõn.


hình thức chiến tranh với sự tham gia đông đảo, nhiệt tình, bằng sự phát huy
tối đa mọi khả năng và sức lực của quần chúng nhân dân. Nói cách khác, đây
là hình thức chiến tranh của toàn dân, toàn thể dân chúng đều tham gia đánh
giặc giữ nớc, vì quyền lợi, vì cuộc sống của chính ngay những ngời dân tham
gia chiến tranh. Dới sự lãnh đạo của giai cấp tiến bộ, các lực lợng dân chúng
đợc tập hợp và tổ chức lại, tạo thành sức mạnh tổng hợp, to lớn; với mọi thứ vũ
khí trong tay có thể đánh thắng mọi kẻ thù.
Trong lịch sử, cũng đã có những triết gia bàn đến vị trí, vai trò của con
ngời, của quần chúng nhân dân theo quan điểm duy vật biện chứng; nhng do
còn bị hạn chế bởi điều kiện lịch sử hoặc lập trờng giai cấp, nên họ cha có
quan niệm đúng đắn và đầy đủ về vấn đề đó. Chỉ đến khi triết học Mác-Lênin
ra đời, các vấn đề về con ngời, về quần chúng nhân dân mới đợc làm sáng tỏ
trên cơ sở khoa học và mang tính cách mạng triệt để, sâu sắc. Từ quan niệm
con ngời là chủ thể sáng tạo và cải tạo thế giới, con ngời là trung tâm của mọi
thời đại; từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tợng trong thế
giới, chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân.
Quần chúng nhân dân là ngời sáng tạo chân chính ra lịch sử, là chủ thể của lịch
sử. Mọi hoạt động của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Họ là lực lợng cơ bản của mọi cuộc cách mạng,
cách mạng thực sự là ngày hội, là sự nghiệp của họ. Trong các lĩnh vực khác nh:
Văn hoá, nghệ thuật, khoa học .v.v, quần chúng nhân dân cũng vừa là ngời sáng
tạo, vừa là ngời thởng thức, gìn giữ, bảo vệ và phát triển những giá trị đó. Mặt
khác, quần chúng nhân dân còn là nơi khơi dậy nguồn cảm hứng, rung động cho
các sáng tác nghệ thuật của các văn, nghệ sĩ. Có thể nói rằng trong lĩnh vực quân
sự, chính trị cũng nh các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, quần chúng nhân dân
luôn có vai trò vô cùng to lớn, họ thực sự là động lực của mọi cuộc cách mạng
xã hội, là chủ thể sáng tạo của mọi hoạt động sống. Do đó, trong các hoạt
động xã hội, nhất là làm cách mạng, ai tập hợp, phát huy đợc sức mạnh của


4
. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 23.
2
3


5

thắng lợi cuối cùng. Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trờng cũng là kháng
chiến. Anh dân cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy,
chị bán hàng buôn bán ngợc xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng
chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trớc bàn giấy, cạnh tủ
sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giờng bệnh cũng là
kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xởng thợ, khai thác
ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến5.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 tháng 12 năm 1946,
Hồ Chí Minh viết: Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngời già, ngời trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là ngời Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc6. Do có đờng lối kháng chiến đúng đắn mà
trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã tập hợp đợc đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia. Không chỉ có công nhân, nông dân, tri thức, mà còn có cả
những nhân sĩ yêu nớcđều đồng tâm hiệp sức tham gia vào cuộc kháng
chiến của dân tộc.
Sức mạnh của chiến tranh nhân dân phải là sức mạnh tổng hợp của của
tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, là sức mạnh có tổ chức của
đông đảo quần chúng nhân dân, cùng với việc sử dụng và phát huy, tác dụng
của mọi thứ vũ khí mọi phơng tiện. Theo Ngời: Muốn thực hiện toàn dân
kháng chiến, ngoài việc động viên quân sự, chính trị, ngoại giao, còn phải
động viên cả tinh thần lẫn kinh tế7. Nên bất kỳ ở đâu, lúc nào Hồ Chí Minh
cũng thờng xuyên coi trọng động viên tinh thần tự lực, tự cờng, lòng yêu nớc

ta. Đoàn kết là một lực lợng tất thắng11.
Nh vậy, Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa, vận dụng sáng tạo quan điểm
triết học Mác-Lênin về mối liên hệ phổ biến, vai trò của quần chúng nhân dân
vào xây dựng chiến lợc chiến tranh nhân dân, mà Ngời còn thổi vào truyền
thống đoàn kết của dân tộc một luồng sinh khí mới, làm tăng thêm vai trò và
sức mạnh to lớn của nhân dân trong đấu tranh cách mạng, để từ đó khẳng định
lực lợng trong chiến tranh nhân dân là toàn dân là sức mạnh của đại đoàn kết
toàn dân tộc. Trong Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá II Trờng

. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 19.
. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 298.
10
. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 298.
11
. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 198.
8
9


7

Đại học nhân dân Ngời nói: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lợng đoàn kết của nhân dân12.
Chiến tranh nhân dân theo t tởng Hồ Chí Minh là hình thức chiến tranh
mang tính chất chính nghĩa, cách mạng do giai cấp công nhân giai cấp tiến
bộ lãnh đạo, mà trực tiếp là Đảng cộng sản Việt Nam; mục tiêu là vì độc lập
tự do của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc khỏi ách thống trị của giai cấp Phong kiến, địa chủ thối nát và thực
dân, đế quốc; hình thức chiến tranh này đối lập với chiến tranh do chủ nghĩa
đế quốc tiến hành, nhằm xâm lợc, nô dịch các dân tộc trên thế giới. Do vậy,

bị, phơng tiện để chiến tranh nhân dân giành thắng lợi cao nhất. Chính từ quan
điểm này, nên ngay từ khi kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nớc đứng lên đánh
đuổi Thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Ai có súng dùng súng. Ai có
gơm dùng gơm, không có gơm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải
ra sức chống thực dân Pháp cứu nớc14. Thực tiễn lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta đã minh chứng cho những luận
điểm trên của Hồ Chí Minh. Ngay sau khi giành chính quyền vào mùa thu
năm 1945, thực dân pháp đã có sự chuẩn bị mọi mặt cho việc quay trở lại cớp
nớc ta một lần nữa, với vũ khí, trang bị, phơng tiện hiện đại hơn, uy lực mạnh
hơn; trong khi đó, quân và dân ta mới chỉ mạnh về tinh thần, ý chí; còn vũ khí,
trang bị, phơng tiện đang rất thô sơ và vô cùng thiếu thốn. Do đó, theo lời hiệu
triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt, quân và dân ta vừa ra sức chống
giặc, vừa tích cực chế tạo nhiều loại vũ khí, trang bị, phơng tiện phục vụ cho
chiến tranh, mặt khác vừa đánh giặc vừa xây dựng lực lợng, thế trận và vừa
sáng tạo ra những cách đánh linh hoạt, phù hợp với khả năng sinh lực, binh lực
hiện có và hình thức chiến tranh nhân dân ở nớc ta. Đánh địch trong thế trận
của chiến tranh nhân dân, trong điều kiện chúng đang mạnh hơn ta gấp nhiều
lần, chúng ta không thể dùng cách đơng đầu trực tiếp, mà phải dùng du
kích, đánh địch ở mọi quy mô: từng ngời đánh, từng đơn vị và từng làng xã
đánh, có đánh lớn, có đánh vừa và có đánh nhỏ với mọi thứ vũ khí, trang bị,
phơng tiện trong tay, đặc biệt phải cớp vũ khí, trang bị, phơng tiện của địch để
tiêu hao, tiêu diệt địch; phải đẩy mạnh truyền thống giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh, trăm họ là binh, cả nớc chung sức, toàn dân đánh giặc, mỗi
ngời dân là một chiến sỹ yêu nớc, mỗi làng xã là một pháo đài. Làm cho địch
14

. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 480.


9

. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 338.
15
16


10

tình báo, liên lạc, tuyên truyền. Mọi ngời đều có dịp phụng sự Tổ quốc 18.
Chiến tranh nhân dân Việt Nam không chỉ là một cuộc chiến tranh mang tính
chất toàn dân mà còn thể hiện ở tính chất toàn diện biểu hiện ở nội dung, hình
thức, phơng pháp nghệ thuật tiến hành chiến tranh đa dạng, phong phú biểu
hiện ở cả lực lợng và sức mạnh của toàn dân. Đánh địch là phải đánh trên tất
cả các mặt, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao .v.v. mặt này hỗ trợ
cho mặt khác giành thắng lợi. Thực tiễn qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống mỹ của dân tộc ta cho thấy, thực hiện t tởng của Ngời, chúng ta đã
kết hợp đồng thời tiến công tốt các lĩnh vực và đã đạt kết quả cao, nh quân sự
và ngoại giao luôn đi đôi với nhau, chúng ta vừa đánh, vừa đàm, đánh là
chủ yếu, đàm là hỗ trợ,buộc địch từ thế tiến công phải chuyển dần về thế
phòng ngự, ta từ yếu chuyển thành mạnh; các hiệp định nh hiệp định Giơ-nevơ, hiệp định Pari đều lần lợt buộc địch phải ký kết, tạo điều kiện cho ta tiếp
tục tranh thủ thời gian chuẩn bị mọi mặt cho tiến công quân Pháp trên các cứ
điểm ở Điện Biên Phủ năm 1954, tổng tiến công và nổi dậy năm 1975 kết thúc
hoàn toàn chiến tranh ở Việt Nam. Về mặt trận kinh tế, chúng ta vừa ra sức
tăng gia sản xuất, vừa thực hành tiết kiệm, xây dựng hậu phơng vững mạnh
chi viện cả sức ngời, sức của cho tiền phơng với phơng châm: Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một ngời, Tất cả cho tiền tuyến, tất cả vì
đánh thắng giặc Mỹ xâm lợc, Tiền tuyến gọi, hậu phơng trả lời .v.v. Đây
cũng là một trong những biểu hiện về mối liên hệ phong phú muôn vẻ của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong t tởng về chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh. Ngời
cũng xác định rất rõ những mối liên hệ nào là cơ bản, những mối liên hệ nào
là chủ yếu, quan trọng, là bên trong hay bên ngoài. Vì thế, trong từng thời

trờng kỳ, dựa vào sức mình là chính; có nh thế mới chiến thắng đợc kẻ thù
xâm lợc. Nhằm giải thích rõ cho cuộc chiến này, Hồ Chí Minh nói: Kháng
chiến phải trờng kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nớc ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu
dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân 21. Ngời còn nói: Địch
muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trờng kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất
định thua, ta nhất định thắng22. Nh vậy, trờng kỳ kháng chiến là một trong
.
.
21
.
22
.
19

20

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 319.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 522.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 164.
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 485.


12

những nghệ thuật, chiến thuật của hình thức chiến tranh nhân dân. Nhng cũng
cần hiểu rằng, không phải trờng kỳ kháng chiến là kéo dài vô hạn về mặt thòi
gian, mà phải luôn nỗ lực, tích cực bồi dỡng về mọi mặt, vừa đánh địch, vừa
không ngừng củng cố, phát triển thế và lực có lợi cho cách mạng. Trên cơ sở
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kêu gọi, động viên tinh thần chiến đấu của toàn
quân, toàn dân ta, vừa khẳng định: Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,

chủ trương phải tiến hành chiến tranh toàn diện, trong đó mỗi người dân Việt
Nam, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều phải trở thành
chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quy luật tất yếu: bảo vệ đất nước luôn luôn gắn liền
với xây dựng đất nước, động viên toàn dân kháng chiến luôn luôn đi đôi với
bồi bổ sức dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trường thực hiện kháng
chiến toàn diện bằng sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu
tranh ngoại giao, lấy đấu tranh quân sự là chủ chốt, là trực tiếp quyết định.
Hai là, gắn chặt tiến tuyến với hậu phương
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa
tiền tuyến với hậu phương. Trong khi nêu khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến,
tất cả để chiến thắng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào thi đua
ái quốc. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Đảng ta và Bác Hồ đã
phát động quần chúng thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, xây dựng và
củng cố hậu phương, tạo nên khí thế mới và sức mạnh mới, góp phần quan
trọng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vĩ đại trên mặt trận Điện Biên Phủ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc xã hội
chủ nghĩa đã trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam, trở
thành căn cứ địa cho cả nước, đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo
xây dựng miền Bắc, coi miền Bắc là cái nền, cái gốc của cuộc đấu tranh hoàn
thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Bác chỉ rõ, mọi việc
chúng ta làm ở miền Bắc đều nhằm tăng cường lực lượng của miền Bắc vào
miền Nam. Bác xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa công cuộc xây dựng


14

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Bốn là, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
Ngay từ buổi đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ mối
quan hệ hữu cơ giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô
sản cao cả, giữa tinh thần tự lực tự cường của dân tộc với việc tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ, sự giúp đỡ quốc tế. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Phải luôn luôn nêu
cao tinh thần quốc tế vô sản, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị với các nước
xã hội chủ nghĩa anh em; hết lòng ủng hộ phong trào giải phóng của các dân
tộc; đoàn kết với giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu, đấu tranh cho hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Năm là, tinh thần cách mạng tiến công
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương, cách mạng là tiến công. Khởi nghĩa
và kháng chiến là tiến công. Tiến công vào mọi kẻ thù của dân tộc, tiêu diệt
chúng để giành lại độc lập và tự do. Tiến công vào chế độ cũ, dựng nên chế
độ mới, xoá bỏ mọi sự áp bức bóc lột, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc.
Muốn đưa cách mạng, đưa kháng chiến đến thắng lợi, phải tiến công liên tục,
tiến công kiên quyết.
Khi chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Bác đưa ra quyết tâm “Dù phải đốt
cháy dãy Trường Sơn, chúng ta cũng phải giành lấy độc lập”. “Hễ còn một
tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam thì cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi
hoàn toàn”. Đến cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Bác ra lời
kêu gọi: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục
chiến đấu, quét sạch nó đi”. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch


16

Hồ Chí Minh, của Đảng ta, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình

thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến
sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”. “Quân đội ta trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân dựa trên những nguyên tắc cơ bản của một quân đội
cách mạng. Chỉ thị của Bác nêu rõ: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc
kháng chiến toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên
trong khi tập trung lực lượng để thành lập một đội quân đầu tiên cần phải duy
trì các lực lượng vũ trang địa phương”.
Từ những ngày ấy, Bác đã phác hoạ một lực lượng vũ trang nhân dân
đông đảo gồm có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các tổ chức, dân quân
tự vệ. Trong suốt quá trình chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và tiến hành kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ, Bác hết sức coi trọng vai trò chiến lược của dân
quân tự vệ, là lực lượng vô địch của toàn dân tộc. Vô luận kẻ địch hung bạo
thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó đều phải tan rã. Bác đã sớm thấy rõ vai trò
chiến lược của đội quân chủ lực. Quân đội là công cụ của nhà nước vô sản
chuyên chính. Bởi vậy, Bác Hồ luôn luôn coi trọng việc phát huy bản chất
cách mạng và tăng cường sức chiến đấu của quân đội, coi trọng vấn đề không
ngừng nâng cao chất lượng của quân đội.
Trong lãnh đạo chiến tranh, theo yêu cầu của nhiệm vụ và khả năng của
đất nước, Bác và Trung ương Đảng đã chủ trương không ngừng động viên sức
người, sức của, phát triển số lượng của cả ba thứ quân; đưa bộ đội chủ lực từ
mấy trăm người, mấy nghìn người lúc đầu lên đến hàng vạn, hàng mấy chục
vạn người trong kháng chiến chống Pháp, hàng trăm vạn người trong kháng
chiến chống Mỹ. Số lượng và chất lượng đều là những nhân tố tạo nên sức


18

19

trin ca phong tro cu quc, m cú nh hng n xng mỏu ca chin s.
Vỡ vy, khi ra ch trng thnh lp i quõn gii phúng, Ngi ó t mỡnh
chn la cỏc cỏn b ch huy u tiờn, cn dn phi tuyn la cỏc chin s cú
tinh thn chin u cao, v c rốn luyn th thỏch trong thc tin u tranh
cỏch mng.
Chin tranh nhõn dõn Vit Nam trong thi i H Chớ Minh l mt pho
kinh nghim phong phỳ, vụ giỏ, khụng ch i vi chỳng ta trong s nghip
xõy dng v bo v T quc ngy nay v trong tng lai, m cũn i vi cỏc
dõn tc b ỏp bc trờn th gii ng lờn gii phúng khi ỏch cai tr, chim
úng v ỏp bc t bờn ngoi.
Nh vậy, t tởng triết học Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân là một
trong những nội dung có giá trị to lớn về mặt quân sự, là ánh sáng soi đờng
cho cách mạng Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta ở
thế kỷ XX. Thắng lợi lịch sử to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam đánh
bại hoàn toàn chiến tranh xâm lợc của đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ là sự minh
chứng hùng hồn cho sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Không chỉ quân đội đánh giặc mà nhân dân cũng đánh giặc; không chỉ đánh
giặc bằng vũ trang mà còn đánh giặc bằng chính trị, bằng binh vận, bằng
ngoại giao. Vì vậy, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trên đất nớc ta hiện
nay cũng phải và càng phải đi theo xu hớng chiến lợc đó.
2. Vận dụng t tởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay.
2.1. Tính cấp thiết bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
Ngày nay tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lờng, cục
diện thế giới càng có sự thay đổi lớn, có lợi cho các thế lực t bản, đế quốc chủ




21

đánh phá trên toàn bộ các mặt trận xây dựng để ngăn chặn, khuất phục chúng
ta.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc toàn dân, toàn diện đoài hỏi mọi công dân
Việt Nam hoạt động trên bất cứ lĩnh vực xây dựng nào phải vừa là ngời xây
dựng vừa là ngời bảo vệ kiên quyết lĩnh vực đó. Công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ngày càng đi sâu vào chiều sâu sẽ ngày càng chuyên nghiệp hoá
các công dân theo một tiến trình phân công lao động xã hội ngày càng sâu
rộng hơn. Có biết bao nhiêu ngành nghề mới ra đòi hỏi những ngời lao động
phải trở thành những chuyên gia giỏi. Bảo vệ Tổ quốc toàn dân và toàn diện
không có nghĩa là phá bỏ sự chuyên môn hoá đó mà là kết hợp công việc xây
dựng và bảo vệ ngay trong sự chuyên môn hoá đó. Ngay trong tình huống
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh vũ khí công nghệ cao thì có thể cũng
không cần thực hiện toàn dân mặc áo lính, ra mặt trận. Có thể phải động viên
một bộ phận lực lợng xây dựng phục vụ chiến tranh nhng không đợc phá vỡ hệ
thống phân công lao động đã hình thành, vì kết thúc chiến tranh phải tiếp tục
xây dựng với nhịp độ càng khẩn trơng hơn. Điều quan trọng là mỗi một ngời
xây dựng, mỗi một chuyên gia phải đồng thời là một chiến sĩ nhiệt tình, dũng
cảm và thông minh; biết xât dựng và bảo vệ có hiệu quả lĩnh vực hoạt động
của mình đồng thời có ý thức hợp đồng và những hiểu biết cần thiết để hợp
đồng với các lĩnh vực khác.
Bi cnh mi ca tỡnh hỡnh quc t, khu vc, trong nc khụng ch to
ra nhng thi c, thun li mi cho cụng cuc xõy dng v bo v T quc
trong thi k mi, m cũn ang v s t ra nhng nguy c, thỏch thc mi,
ũi hi phi tip tc i mi t duy v xõy dng v cng c nn QPTD,
ANND, xõy dng LLVT nhõn dõn, Quõn i nhõn dõn v Cụng an nhõn dõn,
bo v T quc XHCN phự hp vi iu kin lch s mi.

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, giữ vững
ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; mà còn phải giữ cho “ngoài êm”.
Theo tinh thần đó, Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ


23

của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ”, “chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác
động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định yêu cầu tăng cường sức mạnh quốc
phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố vững mạnh, Đảng ta xác định phải “xây dựng thế trận lòng dân
vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Đây là một trong
những yêu cầu bức thiết, là nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận
QPTD, ANND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới. Theo
đó, việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và với chế độ XHCN luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
trong xây dựng, củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân” và “Nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân”.
Thể hiện tư duy mới về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân trong giai đoạn mới, Văn kiện Đại hội Đảng nhấn mạnh: “Tăng
cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm

Xõy dng Quõn i nhõn dõn vi s quõn thng trc hp lý, cú sc
chin u cao l yờu cu mi, ũi hi phi gii quyt hi hũa mi quan h
gia s lng vi cht lng, nhm nõng cao sc mnh chin u ca quõn
i phự hp vi tỡnh hỡnh mi. Chỳ trng xõy dng lc lng Cụng an nhõn
25

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 211


25

dõn vng mnh ton din; kt hp lc lng chuyờn trỏch, bỏn chuyờn trỏch
vi phong tro ton dõn bo v an ninh T quc. Chm lo nõng cao phm cht
cỏch mng, trỡnh chớnh tr, chuyờn mụn, nghip v cho cỏn b, chin s cỏc
LLVT gn vi quan tõm chm lo bo m i sng vt cht, tinh thn phự
hp vi tớnh cht hot ng ca Quõn i nhõn dõn v Cụng an nhõn dõn
th hin s quan tõm c bit ca ng, Nh nc, nhõn dõn i vi LLVT
nhõn dõn trong giai on mi. Cn tip tc y mnh phỏt trin cụng nghip
quc phũng, an ninh; tng cng c s vt cht k thut, bo m cho cỏc
LLVT tng bc c trang b hin i, trc ht l cho lc lng hi quõn,
phũng khụng, khụng quõn, lc lng an ninh, tỡnh bỏo, cnh sỏt c ng.
Trong bi cnh lch s mi, vi nhng thi c, thỏch thc mi, ũi hi
chỳng ta phi tip tc vn dng nhng thnh qu t duy lý lun qua 25 nm
i mi, ng thi nhn thc, quỏn trit sõu sc cỏc ni dung c b sung,
phỏt trin mi trong Vn kin i hi i biu ton quc ln th XI ca
ng; tng bc c th húa phự hp vi tỡnh hỡnh thc tin, cú s vn ng,
bin i mi, ỏp ng yờu cu, nhim v xõy dng v cng c nn quc
phũng ton dõn, an ninh nhõn dõn, xõy dng LLVT nhõn dõn vng mnh, bo
v vng chc T quc Vit Nam XHCN trong tỡnh hỡnh mi
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là cuộc chiến


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status