BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề GIỚI THIỆU tác PHẨM bản án CHẾ độ THỰC dân PHÁP - Pdf 38

69

Chuyên đề 4
Tác phẩm: “BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP”
* * *

1. Mô tả chuyên đề
Đây là chuyên đề nghiên cứu tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” Một trong những tác phẩm quan trọng của Nguyễn Ái Quốc. So với bậc học
trước, chuyên đề nghiên cứu tác phẩm này nhằm vạch ra bản chất, hình thức
bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với thuộc địa.
2. Mục đích:
Nhằm giới thiệu những nội dung kinh tế chính trị chủ yếu trong tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc, qua đó thấy được bản
chất, hình thức bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với thuộc địa và những đóng
góp to lớn của Người trong việc bảo vệ và phát triển kinh tế chính trị Mácxít.
3. Yêu cầu:
Thông qua bài giảng và kết hợp với tự nghiên cứu tác phẩm, tài liệu tham
khảo để nắm được hoàn cảnh lịch sử đời, những nội dung kinh tế chính trị chủ yếu
và ý nghĩa của tác phẩm.
Vận dụng nội dung, phương phương pháp nghiên cứu của tác phẩm vào
học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa và xem xét đánh giá
bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
4. Kết cấu chuyên đề: Gồm 3 phần
I. Hoàn cảnh lịch sử ra đời và kết cấu của tác phẩm
II. Những nội dung kinh tế chính trị chủ yếu trong tác phẩm
III. Ý nghĩa của tác phẩm
5. Tổ chức, phương pháp nghiên cứu bài giảng
Sử dụng phương pháp diễn giảng để giới thiệu từng nội dung của chủ đề
kết hợp với phát huy tính tích cực chủ động nghiên cứu tác phẩm gốc và tài
liệu tham khảo của người học.
6. Hướng dẫn thu hoạch tiểu luận

71

NỘI DUNG BÀI GIẢNG

Nhằm mục đích tố cáo, lên án tội ác của chế độ thực dân đối với thuộc
địa, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm, như: “Tâm địa thực dân”
(1919), “Tội ác của chủ nghĩa thực dân” (1921), “Sự quái đản của công
cuộc khai hóa” (1921), “Dưới cuộc khai hóa cao cả” (1922), “Những kẻ đi
khai hóa” (1922), “Khai hóa giết người” (1922), “Phụ nữ An Nam và sự đô
hộ của Pháp” (1922), “Văn minh Pháp và phụ nữ ở các thuộc địa” (1925),
“Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở viễn Đông - Varen và Đông Dương” (1925),
“Văn minh Pháp ở Đông Dương” (1927), “Sự thống trị của đế quốc Pháp ở
Đông Dương” (1927)…
Trong các tác phẩm viết về chế độ thực dân, thì “Bản án chế độ thực dân
Pháp” là tác phẩm tương đối hoàn chỉnh của Nguyễn Ái Quốc. Sự hoàn chỉnh
được thể hiện trên những vấn đề sau:
- Phân tích sâu sắc và có hệ thống tội ác của thực dân Pháp đối với các
nước thuộc địa;
- Chỉ ra con đường giải phóng thuộc địa khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ
nghĩa thực dân;
- Tác phẩm đề cập nhiều nội dung về kinh tế - chính trị, được coi như tác
phẩm kế tục và phát triển kinh tế chính trị Mácxít trong xem xét, đáng giá chế
độ thực dân.
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” nằm trong nội dung nghiên
cứu của nhiều bộ môn khoa học (văn học, sử học,…). Tuy nhiên, dưới góc
độ chuyên ngành kinh tế chính trị, giới thiệu tác phẩm này nhằm trang bị
kiến thức kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa, bồi dưỡng phương pháp
nghiên cứu khoa học cho học viên sau đại học, đồng thời thấy được những
đóng góp to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc bảo vệ và phát triển kinh
tế chính trị Mácxít.

nước thuộc địa khỏi ách thống trị, bóc lột của chủ nghĩa thực dân .
Phong trào cộng sản và phong trào đấu tranh của nhân dân các nước
thuộc địa phát triển mạnh mẽ. “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”


73

của V.I.Lênin được trình bày tại đại hội Đại hội II của Quốc tế Cộng sản
(được tiến hành từ 19/7-7/8/1920), được sự nhất trí cao của Đại hội, đồng thời
nhiều tổ chức cách mạng quốc tế được thành lập, như Quốc tế nông dân, Tổ
chức Công đoàn ở thuộc địa, Hội liên hiệp thuộc địa,… đã tác động, ảnh
hưởng sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc.
* Tình hình ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, sau chiến tranh thế giới thứ nhất thực dân Pháp tiến hành
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Khác với cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất (từ 1958 - 1918, nặng về thương mại, chú trọng xuất khẩu hàng hóa
hơn là xuất khẩu tư bản, đầu tư chủ yếu là cho vay nặng lãi, phương thức kinh
doanh phong kiến), cuộc khai thác thuộc địa lần này chú ý xuất khẩu tư bản
hơn là xuất khẩu hàng hóa và tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa theo
phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa (đồn điền, hầm mỏ, nhà máy,… ).
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta đang dâng lên mạnh mẽ. Kế tiếp
phong trào Cần Vương, khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo, có các phong trào Duy Tân do Phan Bội Châu khởi xướng và phong
trào theo con đường tư sản do Phan Chu Trinh, Khởi nghĩa Yên Bái theo con
đường tư sản do Lương Văn Can chủ trương, khởi nghĩa của binh lính ở Thái
Nguyên do Nguyễn Thái Học phát động,... Tuy nhiên đều bị thất bại và cách
mạng Việt Nam đang đứng trước cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước
(cách mạng Việt Nam như đêm tối không tìm thấy đường ra).
* Quá trình hoạt động của đồng chí Nguyến Ái Quốc dẫn tới sự ra đời
của tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”:

phóng dân tộc ở các nước thuộc địa (quan hệ chặt chẽ với nhau như hai cái
cánh của một con chim). Quá trình hoạt động đó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người tiếp cận với thực tế, tài liệu phong phú để viết tác phẩm “Bản án
chế độ thực dân Pháp”.
1.2. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục:
Chương I - “Thuế máu”, tố cáo thực dân Pháp bắt thanh niên thuộc địa
đi lính làm bia đỡ đạn dưới chiêu bài “Bảo vệ công lý” trong chiến tranh thế
giới lần thứ nhất. Tổng cộng có 700.000 người bản xứ đã đặt chân lên đất


75

Pháp; và trong số ấy, 80.000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên
quê hương đất nước mình nữa! Tác giả cho rằng đây là một thứ thuế đối với
thuộc địa - “Thuế máu”.
Chương II - “Việc đầu độc người bản xứ”, tố cáo thực dân Pháp đã
không từ một thủ đoạn nào, kể cả những thủ đoạn bỉ ổi và tội ác nhất, trong
đặc biệt là đầu độc bằng rượu, cưỡng bức người dân bản xứ phải mua rượu.
Chương III - “Các quan thống đốc”, giới thiệu “chân dung” một số quan
thống đốc tiêu biểu (người đứng đầu bộ máy cai trị ở các nước thuộc địa) về
tội hối lộ, tham nhũng và tàn bạo đối với người dân thuộc địa.
Chương IV - “Các quan cai trị”, giới thiệu “chân dung” một số quan cai
trị chuyên ăn hối lộ, tham nhũng, đối xử tàn bạo đối với người dân thuộc địa.
Chương V - “Những nhà khai hóa”, tố cáo tội ác, đặc quyền đặc lợi của
những tên thực dân có màu da trắng là quý phái, là thuộc chủng tộc thượng
đẳng. Khi người ta có màu da trắng thì nghiễm nhiên người ta là một nhà khai
hoá. Mà khi người ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc
dã man mà vẫn cứ là người văn minh nhất. Đánh người bản xứ vô cớ, quỵt tiền
công người bản xứ, bắt người bản xứ lạy chào khi gặp trên đường, quỵt tiền khi

Mười Nga, sự ưu việt của chế độ Xô viết, sự giúp đỡ của cách mạng Nga đối
với cách mạng các nước thuộc địa; giới thiệu Tuyên ngôn của Ban Chấp hành
Quốc tế thứ ba đối với vô sản và nông dân các thuộc địa; giới thiệu bản hiệu
triệu của Quốc tế nông dân gửi nông dân lao động các thuộc địa, kêu gọi họ
đấu tranh; giới thiệu chương trình hành động của Tổ chức Công đoàn ở thuộc
địa; giới thiệu tuyên ngôn của tổ chức này, kêu gọi các nước thuộc địa đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Phụ lục - “Gửi thanh niên An Nam”, kêu gọi thanh niên An Nam đấu
tranh chống chủ nghĩa thực dân, chấn hưng nước nhà.
II. NHỮNG NỘI DUNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ CHỦ YẾU
TRONG TÁC PHẨM
Tác phẩm đã vạch trần và tố cáo, lên án đanh thép những tội ác tày trời
của chủ nghĩa thực dân nói chung và chế độ thực dân Pháp nói riêng trên mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; vạch rõ nguồn gốc của mọi sự áp


77

bức bóc lột, mọi nỗi khổ cực của quần chúng ở các thuộc địa. Đồng thời, tác
phẩm vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn cho nhân dân Việt
Nam và nhân dân các nước thuộc địa khác; thức tỉnh, cổ vũ các dân tộc bị áp
bức đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ động tiến hành
đấu tranh cách mạng để tự giải phóng mình.
2.1. Vạch trần bản chất bóc lột kinh tế của chế độ thực dân Pháp đối với
thuộc địa
Tác phẩm phân tích sâu sắc rằng ở các thuộc địa của thực dân Pháp,
kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ còn
rất què quặt (do chính sách kìm hãm của thực dân), thì phương thức bóc lột
thuộc địa chủ yếu của chế độ thực dân là duy trì lối bóc lột phong kiến kết
hợp với lối cướp bóc của đế quốc là cơ bản và được thông qua các hình thức

rưỡi. Làng nào bị tăng thuế cũng cắn răng mà chịu; hỏi còn biết kêu vào đâu?
Được thể các ngài công sứ càng làm già. Nhiều người Pháp coi việc các làng
ngoan ngoãn đóng thuế như vậy là một bằng chứng rõ ràng rằng mức thuế
không có gì là quá đáng!
Thuế gián thu: Là thứ thuế chủ yếu đánh vào người tiêu dùng đông đảo
tức là người dân thuộc địa. Bao gồm: Thuế tiêu dùng (thuế lưu thông hàng
hóa); thuế độc quyền (quy định giá cả cao ở một số hàng hóa đặc biệt để thu
được số tiền thuế lớn); thuế quan (thuế đánh vào các hàng hóa xuất nhập
khẩu). Trong tác phẩm này, đã tố cáo chế độ thực dân dùng nhiều thủ đoạn
đánh thuế lưu thông hàng hóa nhiều lần: “Người ta cấp giấy phép lưu thông
cho 150 kg thuốc lá, sau đó lại bố trí để đánh thuế được nhiều lần cũng món
hàng đó mỗi khi nó chuyển sang tay chủ khác, mỗi khi số 150 kg ấy được
phân phối cho ba, bốn khách mua? Chẳng còn luật lệ nào khác ngoài sự tuỳ
tiện của bọn nhà đoan. Bởi vậy, người An Nam rất sợ bọn nhà đoan, cứ
thoáng thấy chúng là họ vứt ngay giữa đường những thúng muối, thúng cau,
hoặc thuốc lá của họ: Thà vứt của đi còn hơn là phải đóng thuế hết khoản này
đến khoản khác mãi mãi không thôi. Ở một số vùng, nhân dân buộc lòng phải
nhổ thuốc, chặt cau, để tránh những phiền nhiễu vì thuế mới”.
- Bóc lột thuộc địa thông qua nhiều hình phạt nặng nề, hà khắc:
Hình phạt những phụ nữ nghèo khổ không nộp đủ thuế phải mang xiềng


79

đi quét đường.
Không miễn thuế cho những địa phương bị lũ lụt, như “Tỉnh Bắc Ninh bị
lũ lụt tàn phá, thế mà cũng phải nộp 500.000 đồng tiền thuế”.
Chính quyền thuộc địa phát hành công trái, bắt người dân thuộc địa phải
mua công trái; quỵt tiền công của người lao động; bắt dân đóng góp tiền của
để mừng quan chức được thưởng huân chương; thu lệ phí đăng ký trâu, bò

lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội
Vấn đề này được tác giả trình bày ở nhiều chương, trong đó nổi lên là
các tội ác:
- Thuế máu (bắt người dân thuộc địa đi lính đánh thuê, làm bia đỡ đạn):
Tác phẩm tố cáo rằng, khi có chiến tranh, người bản xứ bị chính quyền thực
dân bắt đi lính dưới chiêu bài được phong cho cái danh hiệu tối cao là "chiến sĩ
bảo vệ công lý và tự do", nhưng sự thật là họ đã phải trả bằng một giá khá đắt là
xa lìa vợ con, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu (Người lính Thú).
Tác phẩm tố cáo tội ác, thủ đoạn cưỡng bức bắt lính của chính quyền
thực dân, như: Kéo quân đến từng làng bắt bọn hào mục phải nộp ngay lập
tức đầy đủ số người chúng muốn tuyển mộ; tra tấn, hành hạ các thân nhân của
họ để buộc họ phả đi lính; lấy dây chăng ngang hai đầu con đường chính
trong làng lại, những người da đen ở vào giữa đều phải tòng quân; lột hết tất
cả của cải của những người lính bản xứ trước khi xuống tàu; cho họ ăn như
cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm,
không ánh sáng, thiếu không khí.
Tác phẩm tố cáo của chủ nghĩa thực dân đối xử bất công đối với lính bản
xứ, nhốt những người bị bắt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính

thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,… biến họ thành "vật
liệu biết nói" châu Á.
- Tội đầu độc người bản xứ
Tố cáo chính quyền thực dân đầu độc người dân thuộc địa bằng rượu với
nhiều thủ đoạn thâm độc, như: tăng đại lý bán rượu, một nghìn làng thì có một
nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện, nhưng chỉ có vẻn vẹn mười
trường học; hằng năm tọng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản
xứ, kể cả đàn bà và trẻ con; giao mức tiêu thụ rượu cho các địa phương; tăng số


81



82

sau khi đánh đập tàn nhẫn anh ta; ông thầu khoán Pháp này trói tay một người
Nam Kỳ cho chó cắn, rồi đem giết đi; ông thợ máy Pháp kia "hạ sát" một người
An Nam bằng súng săn; ông nhân viên hàng hải Pháp khác xô người gác cầu
bản xứ vào đống than hồng cho chết, lại không bị trừng trị.
Tố cáo sau những vụ biểu tình ở miền Nam Trung Kỳ, nhiều văn thân bị
chính quyền thực dân xử tử hoặc bị đầy biệt xứ.
- Tố cáo những chính sách ngu dân của chính quyền thực dân:
Tác phẩm tố cáo rằng, để có thể đánh lừa dư luận bên Pháp và bóc lột
dân bản xứ một cách êm thấm, chính quyền thực dân không những đầu độc
nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà còn thi hành một chính sách
ngu dân triệt để, như: Kiểm duyệt triệt để báo chí, báo chí bản xứ phải chịu kiểm
duyệt trước khi in; mọi cuộc trưng bày hoặc phổ biến những bài hát, biếm hoạ
hoặc tranh ảnh làm thương tổn đến sự tôn kính đối với các nhà cầm quyền đều
bị trừng trị; cấm ba ông chủ nhiệm báo tiếng Việt không được đăng lên báo
của họ bản sắc lệnh quy định thể lệ bầu cử hội đồng thành phố ở Nam Kỳ;
trục xuất khỏi tổ quốc và kết án 5 năm đầy biệt xứ đối với Mangát nguyên là
lính tính nguyện tham gia đại chiến trong quân đội Pháp và có vợ người Pháp,
chỉ vì đã viết bài báo tố cáo những sự nhũng lạm của bọn quan cai trị Pháp.
Tố cáo chính quyền thực dân không mở mang trường học ở các nước
thuộc địa. trường học ở các nước thuộc địa thiếu một cách nghiêm trọng;
hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường; tìm đủ mọi cách
để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ
nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản; kiểm duyệt thư tín nghiêm ngặt, chặn lại
và lục soát thư tín của tư nhân.
Tác giả kết luận: "Làm cho dân ngu để dễ trị", đó là chính sách mà các
nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất.

Ở Phết Mơdala (Angiêri), một người bản xứ bị kết án một năm tù vì tội
ăn trộm. Anh ta trốn khỏi nhà lao. Người ta phái một toán quân, do một quan
hai chỉ huy, đến bao vây làng anh ta. Toán quân sục sạo rất kỹ nhưng không
tìm thấy. Chúng bèn tập trung 35 phụ nữ họ hàng thân thuộc của anh ta lại.
Trong số người này có những em gái 12 tuổi, những cụ bà 70 tuổi, những phụ
nữ có thai, những bà mẹ đang cho con bú. Dưới con mắt bao dung của viên


84

quan hai và của viên quan cai trị vừa đến, mỗi tên lính vồ lấy một phụ nữ. Các
hào mục, các người cầm đầu các tổ chức từ thiện trong làng cũng bắt buộc phải
đứng xem cảnh ấy. Người ta bảo làm thế để cho họ sợ. Xong rồi, người ta phá
nhà cửa, bắt súc vật, nhốt những người đàn bà đã bị hãm hiếp vào một căn nhà
để cho chính bọn đao phủ kia canh gác và tiếp tục mọi hành động ô nhục như
thế đến hơn một tháng.
Một viên quan cai trị thuộc địa nọ đã đổ nhựa cao su vào âm hộ của một
phụ nữ da đen. Sau đó, hắn bắt chị ta đội một tảng đá to tướng đứng phơi
nắng cho đến chết.
Tháng 3 năm 1922, một nhân viên nhà đoan ở Bà Rịa (Nam Kỳ) đã đánh
gần chết một phụ nữ An Nam làm phu đội muối, lấy cớ chị đã làm ồn ào dưới
hiên nhà hắn làm hắn mất giấc ngủ trưa; đe doạ đuổi khỏi công trường muối
nếu chị kêu kiện.
Một bà cụ An Nam, cũng là phu gánh muối, vì bị khấu lương nên cãi
nhau với mụ cai. Mụ cai thưa với viên đoan. Viên này không cần xét hỏi gì
cả, tát luôn bà cụ hai cái tát nên thân, và khi bà cụ cúi xuống nhặt nón, thì
nhà khai hoá đó lại đá luôn một cái rất ác vào bụng dưới làm cho máu ộc ra
lênh láng.
Các em bé Angiê đói; nhiều em mới lên sáu, lên bảy đã phải đi đánh giầy
hay xách giỏ thuê ở chợ để kiếm ăn.

và đã có l.025 sinh viên (trong số sinh viên đó, có 151 là nữ sinh, 895 người
là đảng viên cộng sản) của sáu mươi hai dân tộc. Việc thành lập Trường đại
học phương Đông đánh dấu một kỷ nguyên mới; trong khi tập hợp những
người trẻ trung, hoạt bát, thông minh của các nước thuộc địa lại, nhà trường
đang tiến hành một sự nghiệp vĩ đại là:
" a) Giáo dục cho các chiến sĩ tương lai ấy nắm được nguyên lý đấu
tranh giai cấp, là nguyên lý mà một mặt, những cuộc đấu tranh chủng tộc, mặt
khác, những tập tục gia trưởng đã làm cho mơ hồ, lẫn lộn trong đầu óc họ.
b) Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với
giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này;
chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được
thắng lợi cuối cùng.


86

c) Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau,
hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương
Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong nhưng cái cánh của cách
mạng vô sản.
d) Nêu lên cho giai cấp vô sản ở những nước mà giai cấp tư sản có thuộc
địa, một tấm gương về những điều họ có thể làm và phải làm cho những
người anh em của họ đang bị nô dịch... ".
- Thông qua tác phẩm, tác giả tuyên truyền lời hiệu triệu với giai cấp vô
sản và nông dân các nước thuộc địa của một số tổ chức cách mạng quốc tế:
Lời hiệu triệu với giai cấp vô sản và nông dân các nước thuộc địa của
Quốc tế cộng sản:
“Hỡi anh em vô sản và nông dân các thuộc địa” cuộc chém giết đẫm máu
thế giới đã mở mắt cho hàng triệu vô sản và nông dân các thuộc địa thấy rõ
hoàn cảnh sinh sống không sao chịu nổi của mình. Một loạt những cuộc bùng

Hãy đoàn kết lại!
Hãy tổ chức lại!
Hãy phối hợp hành động của anh chị em với hành động của chúng tôi,
chúng ta cùng nhau đấu tranh cho công cuộc giải phóng chung!...”.
Chương trình hành động của Tổ chức Công đoàn ở thuộc địa:
“Trích biên bản phiên họp ngày 27 tháng 6 năm 1923, kỳ họp thứ ba của
Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Công hội đỏ.
Đấu tranh công đoàn ở thuộc địa
Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu
người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã
hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài
đế quốc chủ nghĩa.
Việc cần thiết hiện nay là phải phát động một cuộc tuyên truyền rộng lớn
để thành lập các tổ chức công đoàn ở các nước thuộc địa và phát triển các
công đoàn hiện có dưới hình thức phôi thai.
Không được quên những người lao động thuộc địa, phải giúp đỡ các tổ
chức của họ, đấu tranh bền bỉ chống những chính phủ của chính quốc đang áp
bức các thuộc địa, đó là một trong những nhiệm vụ cấp thiết nhất của tất cả


88

các công đoàn cách mạng, nhất là ở các nước có giai cấp tư sản đi nô dịch và
bóc lột các nước thuộc địa và nửa thuộc địa”.
Tuyên ngôn của “Hội liên hiệp thuộc địa”, tổ chức của những người dân
bản xứ ở tất cả các thuộc địa:
"Anh em phải làm thế nào để được giải phóng?
"Vận dụng công thức của C.Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng,
công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của
bản thân anh em.

bằng lao động của bản thân và vừa học hỏi vừa lao động". Kiên trì, quyết
tâm và đoàn kết như thế, các "ông chú trẻ tuổi" 1 của chúng ta chắc chắn sẽ
đạt mục đích. Với một đạo quân 50.000 công nhân dũng cảm đáng khâm
phục, lại được đào tạo trong kỷ luật và kỹ thuật hiện đại, thì không bao lâu
nữa, Trung Quốc sẽ có một địa vị trong hàng các cường quốc công nghiệp
và thương nghiệp thế giới.
Kêu gọi thanh niên Việt Nam đấu tranh: Ở Đông Dương, chúng ta có
đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn như: hải cảng, hầm
mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng rú bao la; chúng ta có những người lao
động khéo léo và cần cù. Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức! Bởi thế công nghiệp và thương nghiệp của chúng ta là một con số
không. Thế thì thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm:
họ không làm gì cả. Những thanh niên không có phương tiện thì không
dám rời quê nhà; những người có phương tiện thì lại chìm ngập trong sự
biếng nhác; còn những kẻ đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thoả mãn
tính tò mò của tuổi trẻ mà thôi!
Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh
niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc ra đời
đã giáng đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc, trước hết là đế quốc
Pháp, vạch ra con đường cách mạng và tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị
áp bức.
1

) Từ "chú” thường dùng để chỉ Hoa kiều ở Việt Nam (“chú khách" hay “khách trú”).


90


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status