TIỂU LUẬN đấu TRANH PHÒNG, CHỐNG các THẾ lực THÙ ĐỊCH lợi DỤNG vấn đế tôn GIÁO để CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG nước TA HIỆN NAY - Pdf 39

Tụn giỏo l mt hỡnh thỏi ý thc xó hi ra i t tha xa xa trong lch
s nhõn loi v cũn tn ti lõu di. Trong xó hi cú giai cp v u tranh giai
cp, cỏc th lc thng tr phn ng luụn s dng tụn giỏo nhm thit lp, duy
trỡ v thc hin quyn thng tr ca chỳng i vi nhõn dõn lao ng.
Tôn giáo là một trong những vấn đề rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội ở từng quốc gia, dân tộc cũng nh trên phạm vi
toàn thế giới. ở nớc ta, tôn giáo đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng ch ngha xó hi. Giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm tăng cờng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nớc là
vấn đề có ý nghĩa chiến lợc của cách mạng Việt Nam.
Chớnh sỏch nht quỏn ca Nh nc Vit Nam l tụn trng v bo m
cỏc quyn t do tớn ngng, tụn giỏo v t do khụng tớn ngng, tụn giỏo ca
cụng dõn. Cỏc quyn ny ó c nờu rừ trong Hin phỏp v cỏc vn bn
phỏp lut khỏc ca nh nc Vit Nam, trong ú cú Phỏp lnh tớn ngng, tụn
giỏo. Trờn thc t, cỏc tụn giỏo Vit Nam c Nh nc quan tõm v to
iu kin phỏt trin. Mi sinh hot tụn giỏo ca tớn , chc sc thuc cỏc
h phỏi u din ra bỡnh thng. ễng Crớt Xõy-l (Chris Seiple), Ch tch
Vin Liờn kt ton cu (IGE) ca Hoa K ó khng nh: thi im hin
nay, khụng th núi rng vn tụn giỏo l mt khớa cnh nhy cm trong
quan h Vit Nam - Hoa K
Tuy nhiờn, cỏc th lc thự ch vn li dng vn tụn giỏo chng
phỏ Vit Nam. Mt s nc vn cũn cú cỏc nhúm ngi cụng khai, li dng
vn tụn giỏo, can thip thụ bo n cụng vic ni b ca Vit Nam. Li
dng chớnh sỏch i mi, m ca ca ng v Nh nc Vit Nam, hng nm
cú hng chc phỏi on vo tỡm hiu tỡnh hỡnh t do tụn giỏo ti Vit Nam,


2
trong đó vẫn có những nhân vật lợi dụng hoạt động này để nắm bắt tình hình,
hỗ trợ, chỉ đạo các hoạt động chống phá Việt Nam. Trong cái gọi là “Báo cáo
tự do tôn giáo quốc tế” hằng năm, họ thường xuyên tạc tình hình tự do tôn

Ba là, do xu hướng muốn gắn "thần quyền" với "thế quyền" của các
giáo hội. Hầu hết các tôn giáo đều có xu hướng thế tục hóa, tham vọng gắn
"thần quyền" với "thế quyền", gắn "giáo quyền với chính trị". Xu hướng lợi
dụng lẫn nhau giữa các giáo hội và các thế lực chính trị, kinh tế là là xu
hướng hiện thực, thời nào cũng có. Nói cách khác, việc các thế lực thù địch
thường chọn tôn giáo làm đối tượng lợi dụng còn xuất phát từ "nhu cầu" của
một số người đứng đầu trong các tôn giáo.
Bốn là, Niềm tin tôn giáo có đặc trưng là "không cần sự kiểm chứng",
nên người theo tôn giáo có thể rơi vào trạng thái cuồng tín, cực đoan trong
suy nghĩ và hành động, nhất là khi họ đã nằm trong vòng tay điều khiển của
các thế lực chính trị phản động.
Những tín đồ cuồng tín sẵn sàng "tử vì đạo", thậm chí có người còn đi
đến chỗ phủ nhận cả quốc gia, dân tộc là những phạm trù đang được mọi
người tôn trọng, giữ gìn.
Năm là, ngày nay phần lớn các tôn giáo đều có quan hệ quốc tế. Ðây là
một điều kiện thuận lợi cho các thế lực chính trị phản động ở nước ngoài thực
hiện ý đồ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước sở tại, thông qua con
đường lợi dụng các giáo hội trong nước.
Sáu là, Vấn đề tôn giáo nhìn chung là vấn đề "tế nhị và phức tạp", nó tế
nhị và phức tạp ở chỗ: Vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng là vấn đề thuộc lĩnh vực
nhân quyền và dân quyền, mặt khác kẻ lợi dụng tôn giáo ngày nay lại có
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn trước. Vì thế, kinh nghiệm cho thấy giải
quyết vấn đề tôn giáo không đơn giản, rất dễ mắc sai lầm: hoặc tả khuynh,


4
hoặc hữu khuynh (mà ở đây "bệnh tả khuynh" cũng nguy hại không kém
"bệnh hữu khuynh").
Bảy là, khi vấn đề tôn giáo được gắn với những vấn đề khác (chẳng
hạn: với vấn đề dân tộc), thì tính phức tạp của vấn đề được nhân lên gấp bội.

mạng một cách điên cuồng, trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự,
ngoại giao... Ðặc biệt, chúng tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng các tôn giáo
(nhất là giáo hội Công giáo) vào mục đích chính trị: Xóa bỏ nhà nước XHCN,
xóa bỏ học thuyết Mác-Lênin.
Năm 1891, Giáo Hoàng Lê-On XIII đã công bố thông điệp "tâm sự"
với nội dung chống chủ nghĩa Cộng sản... Thông điệp Bách Chu Niên (1991)
kêu gọi thay thế học thuyết Mác-Lênin bằng học thuyết xã hội Công Giáo mà
nền tảng là "phúc âm hóa" toàn thế giới.
Từ năm 1945, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được thiết lập trên
khắp các châu lục. Ðể chống lại xu hướng lịch sử đó, đế quốc và các nước
phản động khác (đứng đầu là đế quốc Mỹ), tìm mọi cách kéo giáo hội các tôn
giáo vào cuộc chiến tranh "diễn biến hòa bình", nhằm xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản ở các nước này.
Bằng cách lập ra những trung tâm thông tin, đêm ngày phát sóng tuyên
truyền phát triển đạo, nói xấu Ðảng Cộng sản, kích động chiến tranh tôn giáo,
chiến tranh sắc tộc, kêu gọi tín đồ đấu tranh đòi tự do tôn giáo, đòi tách giáo
hội khỏi sự kiểm soát của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, gây mất ổn định chính
trị xã hội nhằm tạo thời cơ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó.
* Những phương thức chủ yếu của bọn đế quốc trong việc lợi dụng tôn
giáo nhằm chống phá cách mạng.
Thứ nhất, chúng tìm mọi cách để đưa giáo hội vào các cuộc chiến chính trị.


6
Một mặt chúng thúc giục các giáo hội ủng hộ các đảng phái đồi lập
hoạt động chống Ðảng Cộng Sản. Mặt khác thông qua hoạt động của các đảng
phái đối lập để lôi kéo, tập hợp, kích động các chức sắc, giáo sĩ, tín đồ chống
lại nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xúi giục các giáo hội đòi lập khu tôn giáo tự trị.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bọn đế quốc chú trọng đến việc

vụ cho lợi ích thương mại của các quốc gia họ.
Ðộng cơ phục vụ lợi ích "chính quốc" được thể hiện rõ nét hơn thông
qua hoạt động của các giáo sĩ người Pháp trong tổ chức truyền giáo gọi là
"Hội thừa sai Pa ri", bắt đầu từ năm 1664.
Ngay từ khi mới ra đời, hội thừa sai Pa ri đã được chính phủ Pháp sử dụng
vào việc bành trướng thế lực thực dân của mình ở Viễn Ðông, đặc biệt là Việt
Nam. Mục đích lợi dụng truyền giáo để phục vụ công cuộc thực dân được nhấn
mạnh trong bản điều trần của Hội gửi quốc hội Pháp năm 1790 như sau:
"Hội TSPR là tổ chức duy nhất của các thầy tu người Pháp... có sứ
mạng đem ánh sáng của đức tin và ảnh hưởng của nước Pháp tới các nước
phương Ðông... Các giáo sĩ của Hội không quên lợi ích của nước mình, họ sẽ
và mãi mãi có nhiệm vụ thông báo cho nhà nước mọi phát kiến và những tin
tức cần thiết mà họ đã thu được...Họ tạo điều kiện cho việc buôn bán của
nước Pháp ở phương Ðông và chính họ đã tổ chức ra Công Ty Ðông ấn... ".
Mục đích tôn chỉ đó đã được các giáo sĩ thừa sai quán triệt trong suốt
quá trình truyền giáo ở Việt Nam. Tiêu biểu nhất (ở thời kỳ 1664-1802) là các
giám mục Parancois - Pan Luy, Lam-be-de-lamốt, P. Poivre, và đặc biệt là
giám mục Adran - Bá Ða Lộc.
Tuy nhiên, hoạt động của hai vị giám mục nói trên mới chỉ dừng lại ở
mức độ cung cấp tin tức tình báo về đất nước chúng ta, hoặc khuyến khích


8
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Sự kiện có tính chất điển hình hơn cả là
hoạt động của Bá Ða Lộc (người được giới thực dân đánh giá như "một bậc
tiên khởi" của quá trình xâm lược Việt Nam, kẻ trực tiếp làm môi giới cho
Nguyễn ánh ký với Pháp Hiệp Ước Véc Xây (1787) với thỏa thuận:
Pháp giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để giành lại Vương triều,
Nguyễn Ánh cắt cho Pháp Côn đảo và Hội an (Quảng Nnam, Ðà nẵng). Với
sự giúp đỡ của Bá Ða Lộc, Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây sơn, lên ngôi năm

Lê Duy Minh từ Ma Cao (Trung quốc) về nước để lật đổ triều Nguyễn.
Sự cộng tác của giáo hội với thực dân Pháp ở Việt Nam trong thế kỷ
XIX còn thể hiện ở chỗ: Giáo hội là chỗ dựa cho chính sách ngu dân về văn
hóa của bọn thực dân. Về thực chất đây là một bộ phận của chính sách cai trị
thuộc địa theo lối đồng hóa nền văn hóa dân tộc. Mục tiêu của sự đồng hóa
này là "Thiên Chúa giáo hóa" Việt Nam để đạt mục đích xâm lược và cai trị
dân. Bằng cách sử dụng giáo sĩ vào công việc quản lý nhà nước, loại trừ ảnh
hưởng của Nho giáo (hệ tư tưởng chính thống trong nền văn hóa Việt Nam
dưới thời phong kiến). Nhiều giám mục đã đề nghị thực dân đàn áp đội ngũ sĩ
phu "Văn Thân" của Việt nam, vì theo họ: "Bọn Văn Thân rất có ảnh hưởng,
họ công tiến lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy
nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi..., bởi vì họ quá yêu nước không thể nào
chấp thuận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn
Thân chịu theo đạo Ki-Tô!" (theo lời kể của toàn quyền Lan Ít xăng).
Ðối với quần chúng, các giám mục Pháp chủ trương tôn giáo hóa bằng
nhiều biện pháp khác nhau: Làm cho họ thấy rõ lợi ích của việc theo đạo;
hoặc bằng cách nào đó để họ thấy được vấn đề là nếu đã theo đạo mà bỏ đạo
thì không an toàn về cuộc sống; kể cả dụ dỗ và cưỡng bức theo đạo.
Ðối với giáo dân, giáo hội cấm không cho họ tiếp xúc với xã hội người
lương, các tài liệu sách báo có tư tưởng yêu nước, cách mạng. Việc làm này


10
phục vụ cho chính sách chia rẽ lương - giáo, biến các làng giáo dân, khu vực
giáo dân thành những cứ địa riêng để cha cố dễ bề quản lý hoặc huy động vào
các mục đích thực dân khi cần thiết.
* Giai đoạn 1945-1954.
Ngày 02.9.1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hào được thành lập, sự
kiện đó đã mở ra giáo hội Việt Nam một cơ hội: Từ bỏ con đường cũ, con
đường hoàn toàn phụ thuộc vào thực dân, phục vụ cho những mục đích xâm

giáo hội lại một lần nữa đẩy quần chúng giáo dân vào hoàn cảnh khó xử...
muốn giữ đạo thì phải từ bỏ kháng chiến, từ bỏ dân tộc... nên thực tế chúng đã
thực hiện được một phần mục đích chia rẽ khối đoàn kết toàn dân tộc là một
yếu tố đóng vai trò to lớn với sự thành công của cách mạng.
* Giai đoạn 1954-1975.
Trong những năm 1954-1955 các thế lực phản động đã kêu gọi người
Công giáo di cư vào miền nam nhằm thực hiện ý đồ xây dựng một chính
quyền mà trong đó người Công giáo chiếm đa số để đối đầu với Cộng sản.
Thời kỳ này đế quốc Mỹ đã thi hành chính sách thực dân kiều mới ở
Miền Nam Việt Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm mà nòng
cốt là những người Công giáo: 50% lính trong quân đội Ngụy là người Công
giáo, 40% tướng tá Ngụy là Công giáo. Mỹ ngụy đồng loạt dựng lên các tổ
chức Công giáo phản động: "Liên đoàn sĩ quan Công giáo khu thủ đô sài gòn",
"Thanh niên công giáo tiến hành", “Thanh niên thôn quê Công giáo", "Thanh
niên cộng hòa" do chính các linh mục và giám mục chỉ huy hoặc làm cố vấn,
các tổ chức trên được sử dụng nhiều trong chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng".
- Mỹ-Ngụy đã sử dụng thủ đoạn kích động tư tưởng kỳ thị tôn giáo
giữa đạo Công giáo với đạo Phật: đưa đạo Công giáo lên hàng quốc đạo,
thẳng tay đàn áp những giáo tín đồ có tư tưởng tiến bộ.


12
- Thấy việc lợi dụng đạo Công giáo chống phá cách mạng vẫn chưa đủ,
Mỹ-Ngụy ra sức lợi dụng đạo Hòa Hảo và đạo Cao đài, đồng thời Mỹ còn hậu
thuẫn cho việc phát triển đạo Tin Lành ở miền Nam, xây dựng và gắn kết lực
lượng phản động Fulro ở vùng Tây nguyên với đạo Tin lành.
- Từ năm 1974 trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nguy cơ
sụp đổ của chính quyền Ngụy ngày càng trầm trọng, Mỹ đã chuyển hướng lợi
dụng tôn giáo theo một chiều hướng mới để phục vụ cho mục đích chống phá
cách mạng thời kỳ hậu chiến tranh cụ thể là:

hoạt động chống phá.
Các cơ quan đại diện chính thức của một nước lớn tại Việt Nam có
nhiều hoạt động công khai, trắng trợn nhằm ủng hộ cho các đối tượng cực
đoan, phản động trong các tôn giáo. Đại sứ quán của họ tại Hà Nội và Tổng
lãnh sự quán tại TP.Hồ Chí minh thường xuyên cử người đi các tỉnh, thành
của Việt Nam để “nắm tình hình” sinh hoạt của các tôn giáo, nhưng thực chất
là nhằm trực tiếp tiếp xúc, kích động các chức sắc và tín đồ tôn giáo gây áp
lực đòi thả những tên đội lốt tôn giáo hoạt động chống phá bị ta bắt; “tiếp
sức” cho các đối tượng đang có hoạt động chống đối.
Tình báo của họ thông qua một số chức sắc tôn giáo cực đoan, ngầm
chỉ đạo Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm ra các
“lời kêu gọi” phản động để “nắn gân” cộng sản Việt Nam sau Đại hội X.
Nhóm thiên chúa giáo cực đoan liên tục lợi dụng tranh chấp đất đai để hoạt


16
động đấu tranh chống chính quyền. Đặc biệt, ở một số địa phương từ tranh
chấp đất đai, chúng lợi dụng người cầm đầu tổ chức tôn giáo ở đó để kích
động, xô đẩy giáo dân vào cuộc đấu tranh mang màu sắc chính trị, gây mất ổn
định chính trị, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.
Các thế lực thù địch đã chỉ đạo cho một số đối tượng cực đoan, núp
dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo, như “mục sư”, “tình nguyện viên”,...
để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhằm lừa
phỉnh, dụ dỗ, xúi giục, kích động các tín đồ bỏ lao động sản xuất để tham gia
hoạt động biểu tình chống đối chính quyền. Được chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực thù địch hậu thuẫn, bọn phản động trong các tôn giáo ở Tây Nguyên ra
sức lợi dụng việc Đảng và Nhà nước ra thực hiện chủ trương xóa các tổ chức
Tin Lành trái phép để vu cáo chính quyền Nhà nước Việt Nam “Vi phạm tự
do tôn giáo”, kêu gọi “cầu nguyện cho Tin Lành Tây Nguyên”, đồng thời kích
động các hoạt động chống đối.

Nội dung tuyên truyền phải toàn diện, tổng hợp. Trước hết, cần phải
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng thừa nhận rằng: tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân còn tồn tại lâu dài trong quá trình
xây dựng CNXH; tôn giáo có những giá trị văn hóa đạo đức phù hợp với chế
độ mới; Đảng và Nhà nước tôn trọng và bảo đảm thỏa mãn nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của quần chúng; tuyên truyền cho đồng bào hiểu
rõ: chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề tôn giáo không có mục
đích nào khác là nhằm thúc đẩy quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng (trong giai đoạn hiện nay là thúc đẩy toàn diện quá trình đổi mới đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh)
được củng cố và tăng cường. Dù tính tới sự tác động của bất kỳ nhân tố nào,
chính sách đối với đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo cũng không thể làm ảnh


18
hưởng tiêu cực tới việc đạt mục tiêu đó. Chính sách đối với tín ngưỡng, tôn
giáo được xây dựng và ban hành không phải nhằm đối phó với những tình
huống trong nước và quốc tế mang tính nhất thời, càng không phải nhằm đáp
ứng một số nhu cầu mang tính áp lực nào đó của các thế lực đang ra sức lợi
dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để đẩy tới trong việc thực hiện chiến lược
“diễn biến hoà bình” đối với nước ta, mà nhằm thể chế hoá sâu sắc hơn, đầy
đủ hơn, toàn diện hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được xác định trong Hiến pháp của chúng
ta; bằng cách đó, góp phần củng cố, nâng cao và phát huy vai trò khối đại
đoàn kết toàn dân tộc - không phân biệt có tín ngưỡng tôn giáo hay không có
tín ngưỡng, tôn giáo - trong quá trình tiếp tục đổi mới đất nước.
Tuyên truyền vận động đồng bào thực hiện đúng đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bồi dưỡng niềm tin vào con đường đi lên
CNXH và sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo. Giáo dục chủ nghĩa yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập thống nhất của Tổ quốc, truyền thống tốt đẹp của

khoa học - kỹ thuật - công nghệ sẽ là lực lượng chủ công để giải quyết một
cách cơ bản sự tồn vong của tín ngưỡng và tôn giáo.
Để thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, phải có
phương pháp tuyên truyền, vận động đúng đắn: tác động đồng bộ vào mọi
khâu; chống mệnh lệnh, áp đặt thô bạo; coi trọng việc tuyên truyền, giáo dục,
nêu gương; quan tâm giải quyết đời sống hàng ngày của họ. Trong đó, giới
chức sắc tôn giáo đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quan hệ giữa giáo hội
và giáo dân, có tác động rất trực tiếp tới suy nghĩ và hành động của giáo dân.
Làm cho họ trở thành những người tiêu biểu trong việc thực hiện “Tốt đời - đẹp
đạo”, “Nước vinh - đạo sáng”...là cách tốt nhất trong tuyên truyền, giáo dục và
thực hiện đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.


20
Hai là, triển khai thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn
giáo, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của đồng bào. Đồng thời hết sức quan tâm giải quyết một số
vấn đề bức xúc về kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào theo đạo.
C.Mác đã từng cảnh báo rằng: Lý tưởng mà xa rời lợi ích, lý tưởng tự
bôi nhọ mặt mình. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một lý tưởng
cao đẹp – tạo lập và phát huy một động lực mạnh mẽ nhất cho thắng lợi của
cách mạng nước ta nói chung, của đổi mới nói riêng. Song, sự đoàn kết là
phạm trù tư tưởng – chính trị phải lấy sự thống nhất về lợi ích làm cơ sở. Lợi
ích đó rất đa dạng, bao gồm hai loại cơ bản nhất: Lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần. Đối với đồng bào tôn giáo, ngoài lợi ích được tự do tín ngưỡng,
hoằng thịnh tôn giáo, còn cần có đời sống vật chất sung túc.
Đứng trên phạm vi cả nước, nhiệm vụ chính trị trọng đại của cả dân tộc
ta lúc này là đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm sớm đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển và tạo điều kiện để đến năm 2020 Việt
Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trên tiền đề có

thường tích cực tham gia làm việc nghĩa, ít tiêm nhiễm các tệ nạn xã hội; các
hình thức hoạt động xã hội tự quản của dân cư, hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với
chính quyền địa phương để giữ gìn trật tự trị an, giải quyết các tranh chấp nội bộ,
chống các tệ nạn xã hội và hành vi phạm pháp cũng xuất hiện sớm và phát triển
nhanh ở một số nơi đồng bào có đạo; những cuộc vận động xóa đói giảm nghèo,
xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, xây dựng gia đình và khu dân cư văn hòa mới
cũng được đông bào có đao nhiệt tình hưởng ứng tham gia.
Những kinh nhiệm và mô hình tốt, thể hiện mặt tích cực của đồng bào
có đạo cần được tổng kết và nhân rộng. Ðồng thời đó là căn cứ thực tế giúp
cho việc khắc phục thái độ còn hẹp hòi, nặng về đối phó của một số cán bộ,


22
đảng viên và cơ quan chính quyền đối với tôn giáo, dẫn tới việc làm sai chính
sách khiến cho chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo ở một số nơi còn giữ
mặc cảm, nghi kị đối với chính sách của Ðảng và Nhà nước ta". (trích phát
biểu của Phó thủ tướng: Phan Văn Khải, UVBCT, tại hội nghị tổng kết hướng
dẫn nghị quyết 24/NQ/TW).
Ba là, củng cố và từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, cán bộ an
ninh, cán bộ người dân tộc thiểu số tại chỗ.
Đây là điều kiện bảo đảm nắm được quần chúng đồng thời làm nòng cốt
cho công tác phòng ngừa, đấu tranh, giáo dục cảm hoá, cải tạo những phần tử
xấu, trừng trị những kẻ lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để hoạt động trái
pháp luật, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Tập trung nâng cao chất lượng toàn diện của hệ thống tổ chức đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng ở các địa phương,
chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, phát triển đảng
đến từng thôn buôn. Rà soát lại và đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ cơ
sở, nhất là cán bộ chủ chốt như Bí thư, Chủ tịch xã, Trưởng Công an xã, Xã

biến lớn, góp phần nâng cao nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo cho
toàn hệ thống chính trị.
Về đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo hiện nay đòi hỏi: các cấp ủy
quan tâm bố trí đúng người làm công tác tôn giáo, họ phải được bồi dưỡng về
kiến thức tôn giáo và nghiệp vụ công tác tôn giáo. Đã đến lúc phải đưa
chương trình tôn giáo học và các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các
trường chính trị, đoàn thể các cấp, có hình thức linh hoạt phổ biến kiến thức
tôn giáo học cho nhân dân với tính cách “xã hội hóa”. Đặc biệt, cần có kế
hoạch phát hiện, đào tạo những cán bộ có uy tín, có năng lực vận động chức
sắc tôn giáo để tạo ra mối quan hệ đồng thuận.


24
Cán bộ làm công tác tôn giáo cũng cần đảm bảo tính ổn định. Bên cạnh
chế độ đãi ngộ vật chất, về mặt tinh thần, họ phải được lãnh đạo động viên,
khen thưởng… để cán bộ yên tâm, nhiệt tình trong công tác.
Bốn là, triển khai thực hiện có hiệu quả các mặt công tác phòng, chống
và giải quyết “điểm nóng”, biểu tình, bạo loạn.
Phải tôn trọng giáo chủ, tranh thủ giáo sĩ, thực lòng quan tâm đến đồng
bào các tôn giáo, dân tộc để vận động đồng bào tham gia phong trào bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Đối với đồng bào không theo tôn giáo thì giáo dục để giữ vững
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, thực hiện các hình thức tín ngưỡng
truyền thống, làm vô hiệu hoá hoạt động truyền đạo trái pháp luật. Đối với
những người thực sự có nhu cầu theo tôn giáo, cần giáo dục để đồng bào hiểu
rõ và thực hiện đúng chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, đẩy mạnh
phong trào thi đua xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”.
Đối với đồng bào thuộc Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam), cần
động viên, hướng dẫn, giúp đỡ các chức sắc, Ban trị sự và tín hữu hoạt động
đúng đường hướng hành đạo của Hội thánh và pháp luật của Nhà nước, tạo
điều kiện cho bà con xây dựng cơ sở thờ tự và làm nơi sinh hoạt tôn giáo hợp

Gii phỏp chung c bn nht vụ hiu húa s li dng vn dõn tc,
tụn giỏo ca cỏc th lc thự ch l thc hin tt chớnh sỏch phỏt trin kinh t
xó hi, m trc tip l chớnh sỏch dõn tc, tụn giỏo; nõng cao i sng vt cht
tinh thn ca nhõn dõn cỏc dõn tc, tụn giỏo; cng c khi i on kt ton
dõn tc, thc hin thng li cụng cuc i mi theo mc tiờu dõn giu, nc
mnh, xó hi cụng bng, dõn ch, vn minh.
Túm li, u tranh phũng, chng cỏc th lc thự ch li dng vn
tụn giỏo chng phỏ cỏch mng Vit Nam là một yêu cầu khách quan, cấp thiết
đối với sự nghiệp cách mạng XHCN ở nớc ta hiện nay. Chủ nghĩa đế quốc và



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status