cac bai thuoc đong y chua benh - Pdf 39

MỤC LỤC
1
1. Chữa sỏi mật bằng y học cổ truyền
Sỏi mật thường có các triệu chứng: đau bụng vùng hạ sườn phải, đau lên vai phải; sốt cao liên tục có rét run; vàng
da, có thể có ngứa; có thể có gan to, túi mật to... Sỏi mật có thể gây ra các biến chứng như: viêm túi mật cấp, viêm
màng bụng mật, viêm đường mật, túi mật tích nước, xơ gan ứ mật. Tây y điều trị sỏi mật bằng nội khoa, hoặc ngoại
khoa (phẫu thuật) - nếu đau dữ dội hoặc tái phát nhiều lần thì phẫu thuật cắt bỏ túi mật hoặc mổ ống mật chủ yếu lấy
hết sỏi và sau đó dẫn lưu.
Ngoài ra, sỏi mật có thể điều trị bằng y học cổ truyền. Tùy theo thể bệnh mà có những bài thuốc trị khác nhau,
chẳng hạn: Sỏi mật do can đởm khí trệ (triệu chứng: sườn phải đau quặn từng cơn, lan sau lưng lên vai, có sốt rét ở
mức độ nhẹ, miệng đắng không muốn ăn, buồn nôn hoặc nôn...) thì dùng bài thuốc gồm: sài hồ 6g, chỉ xác 9g, bạch
thược 9g, xuyên khung 6g, hương phụ 9g, cam thảo 3g, xuyên luyện tử 9g, diên hồ sách 9g, kim tiền thảo 30g. Còn sỏi
mật do can đởm thấp nhiệt (triệu chứng: sườn phải trướng đau kéo dài hoặc có cơn lan lên vai, sốt cao sợ rét, miệng
đắng họng khô, buồn nôn...) thì dùng bài thuốc gồm: kim tiền thảo 60g, nhân trần 15g, uất kim 9g, chỉ xác 9g, mộc
hương 9g, hổ tượng căn 9g, bồ công anh 30g, liên kiều 12g, diên hồ sách 9g, kê nội kim 6g. Sỏi mật do huyết ứ nhiệt
kết (triệu chứng: sườn phải nhói đau kéo dài nhiều ngày, sốt, rét, đêm nặng hơn, vùng đau có thể sờ thấy u cục, bụng
trướng, đại tiện táo...), thì dùng bài thuốc gồm: đào nhân, mang tiêu 9g (chiêu), diên hồ sách 9g sinh hoàng 9g (cho
sau) - mỗi thứ 9g, cam thảo 6g, nhân trần 12g, kim tiền thảo 30g. Sỏi mật do nhiệt độc nội thịnh (triệu chứng: bụng
sườn quặn đau trướng đầy, sốt cao rét run, đại tiện táo, tiểu tiện đỏ, ra nhiều mồ hôi, chất lưỡi đỏ sẫm...) thì dùng bài
thuốc: nhân trần 15g, sơn chi 9g, đại hoàng 6g, kim ngân hoa 9g, liên kiều 12g, đan bì 9g, xích thược 9g.
Các bài thuốc trên, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Lương y Vũ Quốc Trung (Hà Nội)
2. Bài thuốc chữa bệnh suy nhược cơ thể
Đông y gọi bệnh suy nhược cơ thể là chứng hư lao, do lao động nặng trong thời gian dài, ăn uống kém chất dinh
dưỡng, do mắc bệnh cấp tính nặng nay đang bình phục, phụ nữ sau sinh nở và thời kỳ nuôi con. Một nguyên nhân nữa
là do bẩm sinh. Cơ thể suy yếu từ trong bào thai, quá trình phát triển cơ thể chậm chạp. Dù bất kỳ nguyên nhân nào dẫn
đến cơ thể suy nhược đều chung một điểm là có sự giảm sút về tinh thần, khí huyết, tân dịch, làm mất sự điều hòa công
năng của các tạng phủ. Xin giới thiệu những bài thuốc sau, tùy từng bệnh nhân suy nhược ở tạng nào, ta lựa chọn bài
thuốc cho thích hợp.
Khí hư: Chủ yếu thương tổn ở hai tạng phế và tỳ.
- Phế khí hư: Thường gặp ở những người bị suy hô hấp do viêm phế quản mạn, tâm phế mạn, giãn phế quản, giãn

máu, ra mồ hôi, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Bài thuốc: Sa sâm 20g, hoài sơn 16g, mạch môn, thiên môn, thục địa mỗi thứ 12g, mạch nha, quy bản, tang bạch bì
đều 10g, trần bì 4g. Sắc uống ngày một thang. Tác dụng tư âm dưỡng phế.
- Tâm âm hư: Thường gặp ở những người thiếu máu, phụ nữ sau sinh, mất máu nhiều, ngủ kém hay mơ màng,
mộng mị, hồi hộp, hay quên, miệng khô, lưỡi đỏ, chân tay nóng, người nóng.
Bài thuốc: Kỷ tử, mạch môn, sa sâm, liên nhục mỗi thứ 12g. Long nhãn, tâm sen, táo nhân, đăng tâm mỗi thứ 8g,
sắc uống ngày một thang. Tác dụng an thần định trí.
- Can âm hư: Hay gặp ở phụ nữ mãn kinh, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch ở người già. Người bồn chồn khó chịu,
hoa mắt, nhức đầu, chóng mặt, lưỡi khô, môi đỏ, mạch huyền.
Bài thuốc: Kỷ tử, hà thủ ô, thục địa, đỗ đen sao, sa sâm mỗi thứ 12g. Tang thầm, long nhãn, cúc hoa, mạch môn
mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một thang.
- Thận âm hư: Hay gặp ở người suy nhược thần kinh, tăng huyết áp, bệnh rối loạn chất tạo keo, sau khi mắc các
bệnh truyền nhiễm. Người hoa mắt, chóng mặt, đau lưng, mỏi gối, tai ù, miệng khô, lưỡi đỏ, vã mồ hôi.
Bài thuốc: Thục địa 16g, sơn thù, hoài sơn mỗi thứ 12g, trạch tả, đan bì, phục linh mỗi thứ 8g. Sắc uống ngày một
thang, uống nguội.
Bài thuốc trên chữa bệnh suy nhược cơ thể, nếu thấy mình có bệnh cần đến khám tại các cơ sở chữa bệnh của bác
sĩ đông y hay lương y gia truyền để được điều trị kịp thời và hiệu quả.
(Sức khoẻ và Đời sống)

3. Tỏi trộn mật ong
Dùng rượu tỏi có cảm giác bị xót bao tử có thể là do ảnh hưởng của rượu. Chứ tỏi có tác dụng làm lành vết thương,
tỏi cũng nóng, nhưng không đến mức làm xót bao tử. Dân gian còn có một cách khác dùng tỏi thay cho rượu tỏi đó là tỏi
trộn mật ong, được làm bằng cách: dùng tỏi còn tươi có tép nhỏ, xay nát rồi đem trộn với mật ong, cho vào trong chai
để dành dùng dần (mật ong có tác dụng bảo quản tỏi không hư). Dùng tỏi trộn mật ong, ngoài những tác dụng gần
giống như rượu tỏi: hỗ trợ tiêu hóa, tiêu diệt các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh (nhờ tỏi có một số tinh dầu, chất
kháng khuẩn, có tác dụng ức chế các loại vi khuẩn, các nấm gây bệnh), còn giúp kháng được một số gốc oxy hóa, các
yếu tố thuận lợi dẫn đến ung thư... Theo y học cổ truyền, tỏi có vị cay, tính ấm, có công dụng sát trùng, giải độc, hành
khí. Mật ong khi trộn với tỏi, ngoài công dụng bảo quản tỏi không hư, mật ong còn là chất bổ dưỡng cung cấp các
vitamin, giúp làm lành các vết loét bao tử. Người bình thường mỗi ngày dùng một muỗng mật ong cũng rất tốt, có thể
dùng riêng một mình mật ong, hoặc có thể pha với nước chanh để dùng. Nói thêm: dân gian còn có cách dùng mật ong

Hàm lượng chất sắt trong rau dền nhiều hơn so với bó xôi, hàm lượng canxi gấp 3 lần, là “kẻ đứng đầu” của các loại
rau tươi. Điều quan trọng hơn là, trong rau dền không chứa acid oxalic; canxi và sắt trong dền sau khi đi vào cơ thể rất
dễ được tận dụng và hấp thu, vì vậy, rau dền thúc đẩy phát triển cơ thể cho trẻ, có giá trị dinh dưỡng cao, giúp xương
gãy mau liền.
Rau dền luộc: Có công hiệu khai vị trợ tiêu hóa, thích hợp dùng cho các chứng khẩu vị kém, bụng no đầy...
Món canh rau dền: Công hiệu thanh nhiệt giải độc, có tác dụng hỗ trợ điều trị cho người đau mắt đỏ, sưng đau hầu
họng do “hỏa bốc lên”. Món canh thanh nhạt tươi mát, thông đại tiểu tiện, là thức ăn lý tưởng cho người táo bón do
nhiệt.
Rau dền xào: Công hiệu bồi bổ, giúp tăng trưởng, rất thích hợp cho trẻ em.
Món cháo rau dền tía: Công hiệu thanh nhiệt chữa kiết, thích hợp dùng cho các chứng già yếu suy nhược, đại tiện
không thông, bệnh lỵ cấp tính, viêm ruột cấp tính... Thường dùng giúp bổ ích tì vị, mạnh cơ thể.
Tuy nhiên, do rau dền có tính mát, nên không thích hợp dùng cho người thể chất lạnh; tiêu lỏng và tiêu chảy mạn
tính (lâu ngày).
Theo NLĐ
6- 12 bài thuốc từ cây dâu
Việc vội vàng động phòng khi kinh nguyệt chưa dứt dễ sinh chứng toàn thân đau nhức như dùi đâm. Nên dùng lá
dâu già và lược gãy, nệm rách, tóc rối lượng bằng nhau, đem đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 3 đồng cân (khoảng 12
g) với nước nóng thì khỏi.
Bổ huyết, dưỡng huyết
Phù tang chí bảo là một bài thuốc hay đã được đề cập đến trong nhiều y thư cổ. Uống ba tháng thì thân thể mọc
đầy mụn do sức thuốc đẩy ra; sau đó khắp mình sẽ tươi sáng, da dẻ mịn màng. Nếu uống liên tục nửa năm, khí lực trở
nên mạnh mẽ, bệnh tật dần dần tiêu tan. Trường kỳ uống mãi thì gân cốt rắn chắc, khí huyết dồi dào, rõ tai, sáng mắt,
tinh thần khoan khoái,
Tăng thêm tuổi thọ.
Chọn lá dâu non, hái lúc mặt trời mọc, rửa sạch bụi phấn, phơi nắng cho khô. Vừng đen phân nửa, xát tróc vỏ, đem
đồ chín “cửu chưng cửu sái” (có nghĩa là chín lần đồ, chín lần phơi), cùng lá dâu tán bột, có thể đem xay nhỏ, cho luyện
mật làm thành viên hoàn.
Cũng hai vị thuốc này, Tuệ Tĩnh còn dùng nấu với nước vo gạo để gội đầu, chỉ 7 lần mà tóc dài được vài “thước”!
Nếu đúng như vậy thì bài thuốc này có tác dụng kích thích mọc tóc.
Chữa thong manh, đau mắt

1. Trà
Lấy 1 thìa cà phê nước cốt chanh, 1 thìa mật ong hoà với 200ml nước trà đặc ở nhiệt độ 80oC. Uống khi còn ấm.
Tác dụng: Nước trà ấm giúp các mạch máu được lưu thông, đẩy nhanh quá trình toát mồ hôi. Chanh giàu vitamin C,
là chất khử độc và sát trùng an toàn. Mật ong có chứa các loại men giúp hấp thụ các vitamin, khoáng chất và tăng
cướng quá trình trao đổi chất của cơ thể.
2. Cây mâm xôi
Lấy 100g quả mâm xôi tươi trộn với 50g mứt hoa quả rồi đun sôi với 500ml nước trong vòng 15 - 20phút. Dùng nước
này để uống.
Tác dụng: Trong thành phần của cây mâm xôi chứa rất nhiều vitamin C, aspirin tự nhiên và axit salixilic có tác dụng
giải nhiệt và hạ sốt. Các chất có trong mứt hoa quả làm ức chế sự phát triển của quá trình viêm nhiễm trong cơ thể.
3. Tỏi
Tỏi xay nhỏ, ép lấy nước, trộn với mật ong theo tỉ lệ 1:1. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa cà phê.
Xay nhỏ 200g tỏi, đun sôi kỹ với 500ml nước trong vòng 15 - 20phút. Sau đó đổ ra cốc, đặt gần mũi và hít thật sâu.
Lưu ý: Tỏi giúp chống nghẹt mũi. Tuy nhiên tuyệt đối không được dùng nước ép từ tỏi nhỏ thẳng vào mũi. Lớp niêm
mạc phía trong mũi rất dễ bị bỏng.
Hãy nghiền nhỏ tỏi, gói lại bằng vải băng rồi đặt ở mỗi bên lỗ mũi từ 5-7 phút. Mũi bạn sẽ thông trở lại.
Tác dụng: Tỏi có chứa nhiều fitoxit - chất kháng sinh tự nhiên giúp khử trùng, tiêu độc.
4. Sữa
Hoà 4 - 5 thìa cà phê mật ong với 1lít sữa. Cho thêm vào hỗn hợp 1thìa vani, 1thìa rượu nho và 1 ít quế. Đun sôi hỗn
hợp từ 10 - 15 phút. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 100ml.
Tác dụng: các men vi sinh, axit amin có trong thành phần của sữa tốt cho hệ thần kinh, làm tăng cường khả năng
miễn dịch của cơ thể.
5. Ớt
Nhai 1/2 quả ớt đỏ, sau đó uống 50ml rượu trắng. Hoặc đổ 1 thìa cà phê ớt xay nhỏ vào 50ml rượu trắng rồi uống.
Tác dụng: Ớt đỏ giàu vitamin C, làm giãn và thông mạch. Rượu được xem như chất khử trùng, chứa axit amin, giúp
xoa dịu cảm giác cay nóng của ớt.
Tuy nhiên, không nên dùng phương pháp này cho trẻ em và những người mắc bệnh gan và tim mạch.
Theo Dân Trí
8- 5 bài thuốc Đông y chữa béo phì
5

Bài thuốc áp dụng cho trường hợp béo phì thuộc loại hình “Đàm nhiệt tích trệ”, hay gặp ở những người ăn nhiều đồ
béo ngọt, uống nhiều rượu. Biểu hiện: Thân hình to béo, người nặng nề đuối sức, có thể kèm theo đầu choáng, mắt hoa,
ngực đầy tức, ngột ngạt khó chịu; phụ nữ bế kinh hoặc không thụ thai được, rêu lưỡi nhớt hoặc vàng nhớt.
3. Thanh vị thông phủ thang
Đại hoàng, bán hạ, thần khúc mỗi thứ 8 g; chỉ thực, trạch tả, sơn tra mỗi thứ 12 g; mạch nha 10 g, phục linh 16 g,
kê nội kim 6 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu trình 20 ngày.
Bài thuốc có tác dụng trừ hỏa nhiệt ở phủ vị - dạ dày, kiện tỳ, trừ đàm thấp, chữa béo phì thuộc loại hình “vị nhiệt tỳ
hư” (dạ dày nóng, chức năng tiêu hóa hấp thụ suy yếu). Dạng bệnh này hay gặp ở thanh thiếu niên, phụ nữ có mang
hoặc phát phì sau khi sinh đẻ. Biểu hiện: Ăn nhiều, mau đói, miệng khát, uống nước nhiều, thân hình béo phì, mặt đỏ
tươi, tinh thần sung mãn, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.
4. Thanh nhiệt hóa đàm thang
Hoàng liên 3 g, hoàng cầm, hậu phác, bán hạ, sơn chi tử mỗi thứ 9 g, thạch cao 15 g (sắc trước 30 phút), đại hoàng
5 g (cho vào sau, trước khi bắc thuốc ra 5 phút), cam thảo 5 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu
trình 20 ngày.
Bài thuốc có tác dụng thanh nhiệt, làm tan đờm, chữa béo phì thể “đàm nhiệt nội trở” với những biểu hiện: Người
béo phì, da mặt bóng loáng như bôi mỡ, ăn rất khỏe, mau đói, sợ nóng, phiền táo, miệng đắng, họng khô, tiểu tiện vàng
sẻn hoặc đại tiện bí kết. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng.
5. Hóa tích thang
Đan sâm, xích thược mỗi thứ 15 g; đào nhân, lai phục tử, lá sen, hồng hoa, xuyên khung, diên hồ sách mỗi thứ 9 g,
thanh bì 6 g, trạch lan, trạch tả, phục linh mỗi thứ 12 g. Sắc uống thay nước trong ngày; uống theo từng liệu trình 20
ngày.
Bài thuốc có tác dụng chữa béo phì thuộc loại hình “đàm ứ nội tích”, với những biểu hiện: Người béo phì, hoạt động
một chút là mệt mỏi, thở dốc, dễ ra mồ hôi, đầu choáng váng, ngực bụng trướng đầy, mạng sườn căng tức, đau hoặc
nổi cục; chất lưỡi tối bệu, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc nhớt.
Theo Tiền Phong
9. Chữa bệnh đổ mồ hôi chân tay bằng lá lốt
6
Có một cách chữa bệnh đổ mồ hôi chân tay không cần mổ và không mất tiền nhưng khá hiệu nghiệm.
Tôi bị bệnh ra mồ hôi chân tay từ thời tuổi trẻ. Đi tất buổi sáng, buổi chiều đã phải thay vì mùi hôi. Một người bạn dân
tộc Nùng đã mách tôi cách chữa bệnh. Nhưng hồi ấy tôi không để ý. Cách đây hơn 10 năm nhớ lại, tôi đã thử chữa. Thật

Giúp bồi bổ cho cơ thể vì trong thành phần có chứa nhiều vitamin và chất khoáng đặc biệt là chất sắt giúp giảm các
bệnh dị ứng.
6. Trà lá cây mâm xôi
Trà lá cây mâm xôi có tác dụng làm sạch nên rất hữu hiệu giúp sạch miệng, là nước súc miệng trị chứng viêm họng.
Không nên dùng loại trà này trong suốt thời gian đầu khi mang thai.
7. Trà hương thảo
Thường được uống khi bắt đầu một ngày mới hoặc khi năng lượng trong cơ thể thấp vì trà hương thảo có tác dụng
hữu hiệu giúp tăng cường năng lượng cho cơ thể, rất hiệu quả trong việc giảm đau đầu và chứng khó tiêu.
8. Trà hoa tầm xuân
Trà hoa tầm xuân giàu vitamin C nên rất hiệu quả với những người đang bị cảm lạnh hoặc cảm cúm, thêm ít nước
cốt chanh vào trà để có tác dụng tối ưu.
Theo BSGĐ
11. Bài thuốc chữa bệnh quai bị
7
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virut gây ra, bệnh thường xảy ra vào mùa đông xuân khi tiết trời mưa, lạnh, độ
ẩm cao. Bệnh hay gặp ở trẻ em từ 5-10 tuổi, bệnh lây nhanh ở các lớp học, nhà trẻ mẫu giáo. Có khi người lớn cũng mắc
ở các vùng dân trí thấp, vệ sinh kém. Bệnh lây qua đường hô hấp khi tiếp xúc trực tiếp như nói chuyện, ho, hắt hơi, virut
khuyếch tán trong không khí nên dễ thành dịch. Theo quan niệm của Đông y cho rằng, đây là dịch độc xâm nhập vào cơ
thể qua mũi, miệng vào kinh thiếu dương, đi theo đởm kinh ra ngoài phát bệnh. Đởm và can có quan hệ biểu lý tạng
phủ, nên có các triệu chứng của can và kinh can kèm theo viêm tinh hoàn, sốt cao co giật... Chính vì vậy, nên khi bị quai
bị thường có biến chứng viêm tinh hoàn dẫn đến teo tinh hoàn và vô sinh sau này.
Triệu chứng của quai bị xuất hiện nhanh, rầm rộ. Sau một đêm ngủ, sáng ra đã thấy má sưng ở quai hàm, có thể
một hoặc hai bên cùng một lúc, sưng ngày càng to, rất nóng và đau, sờ thấy rắn, người có sốt, đau đầu, mệt mỏi, không
muốn ăn, nhai đau nên chỉ nuốt chửng. Môi khô, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, người háo nhiệt, khát nước nhiều. Bệnh kéo dài
từ 7-15 ngày có khi hơn. Trường hợp nặng còn sốt cao, mê sảng, viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn, đau đầu dữ dội,
nôn thốc nôn tháo...
Phương pháp điều trị: Chống viêm, thanh nhiệt, giải độc, chỉ thống.
Bài 1: Sài đất 20g, bồ công anh 16g, kinh giới, kim ngân, thổ phục linh mỗi thứ 12g, chỉ xác 8g, cam thảo nam 8g,
bạc hà 6g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.
Bài 2: Bồ công anh 16g, hạ khô thảo, kim ngân, sài hồ, mỗi thứ 12g, ngưu bàng tử, liên kiều, hoàng cầm mỗi thứ

8
Ho gà là bệnh nhiễm khuẩn, lây theo đường hô hấp, có thể gây dịch do vi khuẩn Bordetella pertissus, đôi khi do
Bordetella parapertissis gây nên. Ho gà rất hay lây. Nguồn bệnh là người bị ho gà lây truyền, nhất là ở thời kỳ viêm long,
bắt đầu có cơn ho, sau đó mức độ giảm dần.
Bệnh lây trực tiếp do các bụi nước bắn ra trong cơn ho. Sau khi mắc bệnh ho gà thì có khả năng miễn dịch bền
vững, nên rất ít khi mắc bệnh lần thứ hai.
Theo Đông y, nguyên nhân ho gà là do tạng phủ trẻ non yếu, bì phu cơ nhục không kín đáo, ngoài thì bị ngộ độc tà
thời khí xâm phạm, trong lại có đờm hỏa ẩn nấp, phế kinh bị bế tắc nên phế khí không thông sướng, nhân đó phát ho
từng cơn kịch liệt. Không chữa bệnh kịp thời thì bệnh dễ kiêm phát các chứng khác.
Các triệu chứng ho gà thường thấy: trẻ ho ngày nhẹ, đêm nặng; ho không kịp thở, không khóc được. Hoặc ho sặc từ
bụng dưới xốc lên, ho liên tiếp vài chục tiếng, nghỉ một tí lại ho; nặng nữa thì khi ho lại nôn mửa, căng tức 2 bên sườn,
nước mắt nước mũi chảy, lâu ngày không khỏi.
Thời gian nung bệnh từ 1-3 tuần. Bệnh diễn biến qua 3 thời kỳ, tùy từng thời kỳ mà dùng các bài thuốc thích hợp.
Thời kỳ đầu, cảm nhiễm phế hàn:
Triệu chứng: chảy nước mũi, ngạt mũi, ho liên tục, ngày nhẹ đêm nặng, rêu lưỡi trắng mỏng. Mạch phù khẩn. Phép
chữa: khu phong tán hàn chỉ khái.
Bài thuốc: Tử tô 12g, bách bộ 12g, lá dâu tằm 16g, trần bì 8g. Nước 300ml, sắc còn 100ml, chia uống 3 lần trong
ngày.
Hoặc bài “Tiểu thanh long thang”: Ma hoàng 4g, chích thảo 4g, bạch thược 6g, bán hạ chế 12g, quế chi 4g, ngũ vị tử
4g, tế tân 4g, can khương 4g. Nước 150ml, sắc còn 50ml chia uống 3 lần trong ngày.
- Nếu thiên về phế nhiệt: ho có đờm vàng, rêu lưỡi vàng. Mạch sác. Phép chữa: sơ biểu thanh nhiệt.
Bài thuốc: Kinh giới 6g, lá xương sông 10g, bạc hà 6g, lá chanh 8g, lá hẹ tươi 6g, bối mẫu 6g, rau má 12g, nghệ
vàng nướng 3 lát. Nước 300ml, sắc còn 100ml, ngày uống 3 lần.
Thời kỳ ho cơn: Vào cuối tuần thứ 2 sau khi phát bệnh: thời gian dài hay ngắn tùy bệnh nặng hay nhẹ. Nói chung từ
3-6 tuần, nặng có thể kéo dài vài tháng hoặc hơn. Lúc này ho sặc sụa, nhẹ thì một ngày ho 10 cơn, nặng thì 20 cơn. Lúc
ho mặt đỏ bừng, thè lưỡi, còng lưng, gân cổ kéo lên, mắt đỏ, nước mắt nước mũi trào ra, mu mắt sưng húp, ho liên tiếp
không nghỉ; cuối cùng thở sâu vào 1 cái thì đỡ ho. Trong khi thở vào nghe kêu như tiếng sáo hoặc như gà gáy, đến khi
ngừng tiếng kêu thì ho lại như trước. Về đêm cơn ho này càng nhiều hơn; ho chấn động gây chảy máu mũi đờm có dây
máu, chảy máu mắt, kết thành ban đỏ. Nếu ho kéo dài mãi, thân thể càng suy nhược, dễ phát sưng phổi, ho suyễn.
Đây là thể đàm nhiệt bế phế. Phép chữa: thanh nhiệt hóa đàm.

12g, lá dâu 12g; ăn kém, đầy bụng, gia: hậu phác, mạch nha đều 8g.
Cháo thuốc dân gian chữa bệnh ho gà
- Hạt dẻ, bí đao 50g, râu ngô 10g. Đun sôi lấy nước hòa đường phèn uống.
- Lấy 1 củ tỏi to, bóc vỏ, giã nát ngâm nước sôi 20 phút, rồi đun sôi 30 phút, pha mật ong, uống.
- Lấy 100g hồ đào, sao vàng uống với mật ong.
- Lấy 1 bộ gan gà ép lấy nước hòa với 15ml, nước đường. Trẻ dưới 1 tuổi uống mỗi lần 5ml. Trẻ 2-3 tuổi uống 8ml. 4
tuổi trở lên uống 15ml. Uống 2 lần trong ngày vào buổi sáng và tối, liên tục trong 3-5 ngày.
- Cháo nhị bì cam thảo: Vỏ rễ dâu 9g, địa cốt bì 9g, cam thảo bột 3g, gạo lứt 50g. Trước hết đun 3 vị trên với nước
vừa đủ, đun 30 phút, bỏ bã lấy nước rồi cho gạo lứt vào nấu cháo ăn.
- Cháo đậu cô ve, táo đỏ: Đậu cô ve 16g, táo đỏ 10 quả, gạo lứt 30g, đường phèn vừa đủ. Tất cả rửa sạch cho vào
nồi, nước vừa đủ nấu thành cháo loãng rồi cho đường phèn, ăn nóng.
- Nước cơm hòa xuyên bối, đường phèn: Khi nấu cơm sôi, múc lấy nước cơm đựng vào bát, cho xuyên bối mẫu 9g
và đường phèn 15g, hấp cách thủy (hoặc hấp trên cơm đang cạn). Uống ngày 2 lần sáng và tối.
- Nước cà rốt, táo tàu: Cà rốt 200g, rửa sạch thái lát cùng với 25g táo tàu, nước 1.200ml, đun cạn còn 400ml, cho
đường phèn vừa đủ, khuấy tan là được, uống 2 lần trong ngày. Day bấm mạch 2 huyệt ngư tế để thanh nhiệt tả phế,
giảm ho và 2 huyệt xích trạch để điều hòa và sơ thông phế khí khỏi ho, dễ thở.
Bài thuốc kinh nghiêm của lương y Thái Vạn...
Theo Lương y Minh Chánh/Sức Khỏe&Đời Sống
14. Chữa bệnh bằng hoa cúc bách nhật
Cúc bách nhật mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh ở nhiều nơi. Trong dân gian, người ta thường thu hái hoa vào
mùa hè, phơi hoặc sấy khô rồi cất giữ để làm thuốc.
Theo y thư cổ, hoa cúc bách nhật vị ngọt, tính bình, có công dụng thanh can tán kết (làm mát tạng can và làm mất
hiện tượng kết tụ), minh mục (làm sáng mắt), chỉ khái định suyễn (làm ngừng ho hen); thường được dùng để chữa các
chứng bệnh như đầu phong (đau đầu do phong hỏa, khi đau khi không, có sự xúc động thì đau), mục thống (đau mắt),
khí suyễn khái thấu (ho hen), lỵ tật (bệnh kiết lỵ), bách nhật khái (ho gà), tiểu nhi kinh phong (trẻ em co giật), loa lịch
(lao hạch), sang dương (lở loét)... Một số cách dùng cụ thể như sau:
Đau đầu do phong hỏa: (1) Hoa cúc bách nhật 9g, mã tiên thảo 12g, sắc uống. (2) Hoa cúc bách nhật 6g, câu
đằng 6g, cương tàm 6g, cúc hoa 10g, sắc uống ngày 1 thang.
Tăng huyết áp: Hoa cúc bách nhật 15g, hạ khô thảo 30g, cúc hoa 15g, sắc uống hằng ngày.
Hội chứng tiền đình: Hoa cúc bách nhật 15g, cúc hoa 15g, mạch môn 10g, thạch hộc 10g, tang diệp 10g, sắc

huyệt vị châm cứu như phế du, định suyễn, thiên đột, phong long, đản trung, mỗi huyệt tiêm 0,3ml để điều trị 40 ca hen
phế quản và viêm phế quản thể hen, đạt hiệu quả 70%. Cũng có tác giả dùng dưới dạng viên nén cúc bách nhật (mỗi
viên tương đương với 3,2g dược liệu sống), mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 viên, 10 ngày là một liệu trình, dùng liên tục
2 liệu trình, điều trị 500 bệnh nhân viêm phế quản mạn tính, đạt hiệu quả 77,1% và điều trị 174 bệnh nhân hen phế
quản, đạt hiệu quả 81,8%.
Theo Sức Khỏe&Đời Sống
15. Lá mơ trị kiết lị
Lá mơ tam thể còn gọi là mơ lông (vì cả hai mặt của lá đều có nhiều lông, rất mịn), mặt trên của lá có màu xanh,
mặt dưới có màu tim tím. Tên khoa học là Paederia tomentosa lour, là loại cây leo, mọc hoang ở mọi nơi (thường ở các
hàng rào). Có thể trồng bằng dây (lấy những đoạn dây ở gần gốc, dài khoảng 30 cm, vùi ở hàng rào). Chỉ trồng một lần,
có thể dùng nhiều năm. Ngoài việc dùng làm gia vị đối với các món ăn như thịt cầy, bê thui..., lá mơ còn là một vị thuốc
để trị một số bệnh hiệu quả.
Chứng kiết lỵ, viêm ruột mãn tính: Lá mơ tam thể: 50 -100g, rửa hay lau sạch lông, giã nhuyễn, trộn với 1 - 2 quả
trứng gà (cả lòng đỏ và lòng trắng), cho thêm 5 - 10g muối, trộn đều, xào hoặc cuộn vào lá chuối nướng cho đến khi có
mùi thơm. Mỗi ngày ăn 2 - 3 lần liên tục trong 7 - 10 ngày, rất công hiệu.
Chứng phong tê thấp (đau nhức xương khớp, luôn có cảm giác nặng nề, bứt rứt), dùng theo hai cách:
- Uống: lấy cả lá và dây, cắt nhỏ, mỗi đoạn chừng 1 - 2 cm, sao vàng. Mỗi lần dùng 50g, sắc với 200 ml, còn 100 ml,
chia đều, uống 3 lần trong ngày, liên tục 10 - 15 ngày.
- Dùng để xoa bóp: cũng dùng cả lá và thân: thái nhỏ, phơi khô, sao vàng, ngâm trong rượu (trên 40 độ) lắc đều
mỗi ngày. Xoa tại các vùng đau nhức.
Ngoài ra ở một số nước, người ta còn dùng nước sắc lá mơ để trị chứng bí tiểu tiện và sỏi thận, liều dùng cũng như
trên. Tuy nhiên điều này chưa được thử nghiệm ở Việt Nam.
Theo Bác sĩ gia đình
11
16. Chữa ngứa chân
Bài 1:
Chân ngứa, gãi nhiều nên sứt sát da thịt. Cách chữa: lá chè tươi 1 nắm, giã nát, hòa thêm ít nước, vắt lấy nước đặc,
rửa chân vài lần là hết.
Bài 2:
Chân ngứa, có khi ngứa cả đùi cả bắp, gãi nhiều sước da, chảy nước vàng. Cách chữa: cây kinh giới, 2 đồng cân (8

cho bệnh viêm khớp có triệu chứng đau cố định, tại chỗ nề nhẹ. Trong bài, thổ phục linh vị ngọt, tính bình, có công dụng
giải độc, trừ thấp, lợi quan tiết; uy linh tiên vị cay mặn, tính ấm, có công dụng trừ phong thấp, thông kinh lạc và giảm
đau; phòng kỷ vị cay đắng, tính lạnh, có công dụng trừ phong thấp, lợi niệu giảm đau. Nghiên cứu hiện đại đã chứng
minh cả 3 vị đều có tác dụng kháng khuẩn chống viêm, uy linh tiên và phòng kỷ còn có tác dụng giảm đau rất thích hợp
đối với việc trị liệu viêm khớp.
Bài 3: Sinh địa 50g, khương hoạt 30g, độc hoạt 30g, kê huyết đằng 40g, đương quy 30g, thiên ma 20g, ngưu tất
20g, tỳ giải 20g. Tất cả sấy khô tán vụn, mỗi ngày lấy 20 - 30g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 30 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày, người uống được rượu có thể pha thêm chút ít hoàng tửu thì càng tốt. Công dụng: khu
phong trừ thấp, hoạt huyết giảm đau, dùng cho bệnh viêm khớp lâu ngày, khí huyết suy nhược, các khớp có biểu hiện
viêm dính và biến dạng. Trong bài, sinh địa và đương quy có tác dụng tư âm bổ huyết; khương hoạt trừ phong thấp nửa
trên, độc hoạt trừ phong thấp nửa dưới cơ thể; ngưu tất và kê huyết đằng hoạt huyết bổ thận; tỳ giải thải thấp qua
đường tiết niệu. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh thiên ma, ngưu tất và độc hoạt đều có tác dụng chống viêm và
giảm đau rõ rệt.
Bài 4: Dâm dương hoắc 30g, uy linh tiên 30g, xuyên khung 30g, nhục quế 30g, ké đầu ngựa 30g. Tất cả tán vụn,
mỗi ngày lấy 30 - 40g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 30 phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày, có thể
12
pha thêm một chút rượu thì càng tốt. Công dụng: tráng dương hoạt huyết, khứ phong trừ thấp, dùng cho chứng viêm
khớp giai đoạn muộn khi các khớp đã biến dạng, thể trạng suy yếu, toàn thân đau mỏi, sợ lạnh, tay chân lạnh... Trong
bài, dâm dương hoắc vị ngọt, tính ấm, có công dụng bổ thận tráng dương, khứ phong trừ thấp; nhục quế vị ngọt, tính
nóng, có công dụng bổ nguyên dương, ấm tỳ vị, trừ hàn, thông huyết mạch; xuyên khung hoạt huyết; uy linh tiên và ké
đầu ngựa trừ phong thấp. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh dâm dương hoắc có tác dụng chống viêm; xuyên khung,
nhục quế, uy linh tiên và ké đầu ngựa đều có khả năng giảm đau rõ rệt.
Bài 5: Hoàng kỳ sống 10g, quế chi 4,5g, bạch thược sao 7,5g, ngũ gia bì 6g, gừng tươi 2 lát. Các vị thái vụn hãm
với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút có thể dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: bổ khí huyết, trừ
phong thấp, dùng cho chứng viêm khớp ở người suy nhược cơ thể, thiếu máu, các khớp đau nhưng không sưng nóng,
chườm nóng đỡ đau.
Nhìn chung, các phương trà dược nói trên đều rất đơn giản, dễ chế, dễ dùng, rẻ tiền và đạt hiệu quả ở một mức độ
nhất định. Có thể sử dụng để điều trị dự phòng, điều trị hỗ trợ các thuốc khác trong giai đoạn bệnh tái phát và điều trị
duy trì khi bệnh đã ổn định.
Sức khoẻ & đời sống

Người lớn hay có cơn hen:
Hạt tía tô 1 lạng, sao qua tán bột, đổ 2 bát nước vào quấy đều, lọc bỏ bã. Nấu cháo ăn
lúc đói.
Trẻ em ho nhiều thở gấp, mặt tím tái:
Hạt tía tô 20 g tán thành bột, hòa với nước đun sôi để còn âm ấm, lọc bỏ bã
cho uống. Cẩn thận hơn thì cho bột vào túi vải hãm vào nước sôi. Hoặc lấy bột này hòa vào cháo, hãm vào nước sôi
hoặc hòa vào nước cơm cho trẻ uống.
Ho do phế hư hoặc đàm trắng đục dính, nặng ngực:
Hạt tía tô 90 g sao thơm, tán bột, ngâm với 1 lít rượu gạo ngon
trong 10 hôm, chắt lấy nước trong bỏ bã. Uống mỗi lần 15-30 ml. Ngày uống 3 lần sáng, trưa, tối (nếu đàm vàng, cổ
khô, miệng khát, môi đỏ thì không dùng).
An thai
Động thai:
Sắc cành lá cây tía tô để uống. Hoặc sắc lấy nước nấu cháo để ăn.
13
Có thai sắp sinh bị phù:
Cành, lá tía tô 80 g, vỏ gừng tươi 30 g, cho 3 bát nước đun sôi kỹ (đậy vung kín) lấy nước
uống và xông. Công thức này cũng có tác dụng an thai.
Có thai cảm sốt:
Lá tía tô, kinh giới mỗi thứ một nắm sắc lấy nước uống, tiếp đó ăn cháo trứng gà nóng. Trứng gà
đen tốt nhất.
Vú sưng:
Lá tía tô 1 nắm nấu nước nóng, đồng thời lấy 1 nắm lá tía tô giã nhuyễn đắp lên vú sưng.
Nôn mửa dữ dội khi có thai, động thai:
Cành tía tô 12 g, sắn dây 12 g. Sắc chung lấy nước uống.
Thiếu máu:
Uống nước lá tía tô (30 lá xay nhuyễn). Để cho dễ uống, xay kèm vài quả táo, ít đường phèn. Nước này
cũng có tác dụng an thai tuy có kém hơn cành tía tô.
Chăm sóc da
Người Nhật rất chuộng trà tía tô dùng uống thay trà, đồng thời dùng nước trà tía tô để gội đầu, tắm rửa để bảo vệ

Bài 4: Nghệ đen hoàn: Nghệ đen 160g, cốc nha 20g, khiên ngưu (sao) 40g, hạt cau 40g, đăng tâm (bấc lùng) 16g,
nam mộc hương 16g, thanh bì 20g, thanh mộc hương 20g; củ gấu 160g, tam lăng 160g, đinh hương 16g. Tất cả các vị
tán thành bột mịn, hoàn thành viên. Liều dùng: Ngày uống 8 đến 12g với nước sắc gừng (nướng chín).
Tác dụng: Chữa chứng ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, mệt mỏi, lạnh bụng, đại tiện phân sống, nấm mạn tính đường
ruột.
Bài 5: Nghệ đen tán: Nghệ đen, bạch chỉ, hồi hương, cam thảo, đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung.
Lượng các vị bằng nhau (đều 40g). Tất cả các vị tán bột, hoàn thành viên. Liều dùng: uống 8 đến 12g.
Tác dụng: Bổ khí, dưỡng huyết, trị nhiều bệnh về khí huyết.
Đây là bài thuốc bổ khả dụng, dùng chữa nhiều chứng bệnh thuộc phạm vi chứng suy nhược, tiêu hóa hấp thu kém,
thể trạng xanh xao, thiếu máu, dễ cảm vặt... mà “Trung Quốc bách khoa đại từ điển” gọi là chữa bách bệnh (liệt kê 33
chứng bệnh khác nhau). Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế cho thấy nếu bài thuốc được làm thành thang sắc uống thì hiệu
quả kém hẳn, do việc sắc đã làm thay đổi tính chất bài thuốc, đặc biệt là một số vị thuốc chứa tinh dầu như bạch chỉ, hồi
hương... bị bay mất tinh dầu và làm mất cái “hay” của bài thuốc.
20. Chữa bệnh bằng vỏ trứng gà
Bệnh hôi miệng, viêm loét dạ dày - tá tràng có thể chữa khỏi bằng cách dùng vỏ trứng gà sống nghiền nát, rây bột
mịn, uống ngày 3 lần với nước sôi để nguội, mỗi lần 2 g.
Sau đây là một số bài thuốc khác từ vỏ trứng gà:
- Chữa khí hư: Vỏ trứng sống 200 g, hạt bông (sao đen cho hết khói) 80 g. Tất cả tán nhỏ, trộn với rượu, làm thành
viên bằng hạt ngô, uống cùng với nước cơm vào lúc đói, mỗi lần 20 viên.
- Chữa ho gà: Vỏ trứng sống 1 cái, rễ cỏ gà 20 g, lá chanh 20 g, lá táo 20 g, vỏ quýt 10 g, tất cả thái nhỏ, sao vàng,
sắc với 400 ml nước đến khi còn 100 ml, uống 2 lần/ngày.
- Chữa sốt cao, sốt kéo dài: Vỏ trứng đã nở con 20 g, rửa sạch, nghiền nát, phơi khô, sao vàng, tán bột để uống.
- Chữa lở loét: Lấy vỏ trứng đã nở con sao vàng, tán bột mịn, hòa với dầu vừng, bôi lên chỗ lở loét hằng ngày.
- Chữa mắt sưng đỏ, chảy nước mắt, nhiều dử, sợ ánh sáng: Vỏ trứng đã nở con 50 g, sao vàng, tán bột mịn, uống
mỗi lần 1-4 g với nước nóng.
DS Huyền Hoa, KH&ĐS
21. Tác dụng chữa bệnh của rau cần
Nếu bị cao huyết áp hoặc ho lâu ngày không khỏi, có thể lấy rau cần ta rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước
uống ngày 2 lần (sáng và chiều) trong 5-7 ngày, có thể uống với mật ong. Còn khi chân bị nứt nẻ, hãy lấy
250 lá rau cần tây sắc với 1 lít nước để ngâm chân.

bạc hà (hoặc thêm 50 g lá bạc hà vào nấu chung), uống nóng, từng hớp một.
- Rong kinh và khí hư:
Vỏ quả xoài chín 30 g, sắc uống hằng ngày.
- Đi ngoài ra máu, lỵ mạn tính:
Vỏ quả xoài chín 50 g, phơi khô, sắc uống hằng ngày.
- Trừ giun đũa:
Nhân hạt xoài 20 g, hạt chanh 15 g, 2 thứ giã nát, đổ 2 bát nước, sắc còn 1 bát, uống vào sáng
sớm lúc còn đói, uống liền trong 2-3 ngày.
- Làm săn da:
Lá xoài tươi 50 g, giã nát, đắp mặt trong 20 phút rồi rửa mặt thật sạch.
- Rửa vết thương:
Lá xoài tươi 200 g, cho vào 1 lít nước, đun sôi 10 phút, dùng để rửa vết thương.
- Ho, viêm họng:
Lá xoài tươi 200 g, cho vào 1 lít nước, đun nhỏ lửa cho sôi 15 phút, sau đó bắc xuống, dùng
khăn trùm kín đầu để xông. Khi xông nhớ há miệng để đưa hơi vào cổ họng. Làm mỗi ngày 1 lần.
Lưu ý:
- Thịt quả xoài có tác dụng lợi tiểu, chữa hoại huyết, nhưng nếu ăn nhiều sẽ nóng.
- Mủ xoài có chất độc gây nôn mửa, tiêu chảy, viêm da.
BS Đỗ Văn Sơn, Sức Khỏe & Đời Sống
23. Chữa phong thấp bằng cách lấy độc trị độc
Hiếm ai trong đời không vài lần bị tê mỏi chân tay hay nhức đau xương khớp (dân gian gọi là phong
tê thấp). Bệnh được cải thiện rất hiệu quả bằng phương thuốc cổ nổi tiếng có mã tiền - một vị thuốc độc -
làm chủ đạo.
Phong tê thấp là bệnh khá phổ biến, với những biến chứng tai hại, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng cuộc sống của
người bệnh. Đông y đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý chữa bệnh này, trong đó có việc dùng hạt mã tiền theo
nguyên tắc "lấy độc trị độc".
Mã tiền giúp thúc đẩy sự vận hành của huyết dịch, trừ khử ứ trệ, thông kinh hoạt lạc, chống tê mỏi và cắt cơn đau.
Do đó hầu hết các bài thuốc chữa phong tê thấp đều có nó. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, vị thuốc này khi sử dụng
với liều nhỏ sẽ kích thích thần kinh trung ương, làm mạnh tim, giảm đau, chống ho, trừ đờm và tăng tiết dịch vị.
Mã tiền sống là thuốc rất độc (bảng A), sau khi bào chế theo phương pháp truyền thống thì độ độc giảm bớt (bảng

thái bụng đói, dược tính dễ dàng chuyển xuống dưới, thuốc uống vào sẽ tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc đường tiêu hóa,
nhanh chóng đi qua dạ dày, xuống ruột. Nhờ đó, thuốc sẽ nhanh chóng được hấp thu và phát huy tác dụng, không bị
thức ăn trong dạ dày làm loãng.
- Uống sau bữa ăn 15-30 phút:
Áp dụng cho các bệnh phía trên như tâm, phế, ngực và trên dạ dày. Các loại thuốc gây kích thích đối với đường tiêu
hóa hoặc có độc tính khá cao cũng nên uống sau khi ăn để tránh hấp thu quá nhanh, gây trúng độc.
- Uống vào sáng sớm khi đói:
Áp dụng cho các loại thuốc thang bồi bổ để thuốc được hấp thu đầy đủ. Các thuốc dùng để diệt trùng, công hạ và
chữa bệnh mạch máu tứ chi cũng nên uống lúc đói, nhằm làm cho thuốc nhanh đến ruột, nồng độ thuốc không bị giảm
đi.
- Uống trước khi ngủ 15-20 phút: Áp dụng cho các thuốc bổ tâm tỳ, an thần, ngủ ngon và chữa các bệnh ứ trệ, bệnh
vùng ngực. Uống xong nên nằm ngửa, nếu là thuốc trầm giáng thì nên nằm nghiêng.
- Uống ấm: Các thuốc sắc ôn hòa và bổ dưỡng.
- Uống nguội: Các thuốc sắc giải độc, phòng nôn, thanh nhiệt.
- Uống nóng: Các thuốc sắc giải biểu (cho ra mồ hôi) nên uống nóng để toát được mồ hôi. Các loại thuốc khử hàn,
thông huyết mạch cũng nên uống nóng.
- Uống liền một mạch:
Nghĩa là uống một lần hết ngay, hợp với các bệnh nặng hoặc bệnh về dạ dày, các thuốc thông tiện, hoạt huyết, hóa
ứ. Mục đích của cách uống này là để thuốc không làm tổn hại đến chính khí, phát huy hết tác dụng.
- Uống từ từ: Tức uống từng tí một hoặc ngậm thuốc, áp dụng cho các bệnh đau họng, nôn mửa nhằm làm cho
thuốc ngấm dần vào chỗ đau.
- Ngâm uống:
Với các loại thuốc quý như trầm hương, mộc hương và thuốc có mùi thơm, không nên đun lâu, có lúc nên pha uống
(cho thuốc vào cốc, cho thang còn nóng vào ngâm, một lúc sau thì uống). Các loại nhục quế, tàng hồng hoa nên ngâm
nước nóng để uống, tránh đun lâu để không làm mất các thành phần có ích trong thuốc.
Nông Nghiệp Việt Nam
25. Vị thuốc từ trứng gà ngâm giấm
Trứng gà ngâm giấm ăn trở thành vị thuốc, có tác dụng chữa một số bệnh như viêm loét dạ dày, viêm
da thần kinh, ngứa da trâu... Cách làm cũng đơn giản.
Trứng gà là thức ăn và cũng là một vị thuốc quý. Các thành phần dinh dưỡng như chất đạm (protein), chất béo, chất

Theo Tri Thức Trẻ
26. Chuối tiêu chữa nhiều bệnh
Nếu như quả chuối tiêu xanh được dùng chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ thì chuối tiêu chín lại có tác
dụng nhuận tràng, chữa táo bón. Chuối chín còn giúp làm dịu các thương tổn ở ruột, thúc đẩy chúng lên
da non.
Quả chuối tiêu chín rất tốt cho trẻ nhỏ, trẻ đang độ lớn, người dưỡng sức, người già, người lao động trí óc và tay
chân. Chuối tốt cho hệ xương, sự sinh trưởng và cân bằng thần kinh. Người suy nhược nên ăn chuối hằng ngày.
Vỏ quả chuối tiêu chữa lỵ, đau bụng, thổ tả, ngày dùng 15-30 g sắc uống; hoặc sắc lấy nước rửa những chỗ mẩn
ngứa, lở loét. Bột quả chuối tiêu xanh để phòng và chữa loét dạ dày. Vỏ quả chuối xanh có tác dụng diệt nấm, nhựa của
quả chuối xanh chữa hắc lào.
Lá chuối tiêu non còn ở trong thân đem giã nát, đắp làm thuốc cầm máu vết thương, làm dịu vết bỏng. Củ và rễ
chuối tiêu giã lấy nước cốt hoặc dịch thân cây uống chữa sưng tấy, nhọt sưng đau, nóng quá phát cuồng, mê sảng, co
giật, kiết lỵ tiêu chảy.
Sau đây là các bài thuốc có chuối tiêu:
Chữa trúng độc do ăn uống: Củ chuối tiêu thái miếng, cho đầy nồi, đổ ngập nước, lấy một bát cho uống để làm
nôn mửa.
Chữa nhọt, sưng tấy, mụn nhọt: Củ hoặc rễ chuối tiêu giã nát đắp.
Chữa phế nhiệt, đàm suyễn: Rễ chuối tiêu 60 g, rau sam 30 g, giã nát, ép lấy nước, đun ấm, bỏ bã uống nước.
Chữa đái ra máu: Rễ chuối tiêu tươi 120 g, cỏ nhọ nồi 30 g, sắc nước uống.
Chữa sốt cao phát cuồng, mê sảng, co giật: Dùng một lóng trúc hoặc nứa vót nhọn đầu, chọc vào giữa thân
cây chuối tiêu cho nước chảy ra. Hứng lấy một bát uống. Có thể dùng củ và rễ, giã nát vắt lấy nước cốt uống.
Chữa hắc lào: Rửa sạch chỗ hắc lào bằng nước nóng, gãi cho sượt da ra, lau khô. Lấy một quả chuối xanh còn non
trên cây, bẻ hoặc cắt cho nhựa chảy ra, chấm bôi vào chỗ có nấm, làm 4-5 lần.
Phòng và chữa viêm loét dạ dày: Thịt quả chuối tiêu xanh, phơi sấy khô ở nhiệt độ dưới 50 độ C, tán bột, ăn
hằng ngày với liều 20-30 g.
Chữa phụ nữ ít sữa và người già táo bón: Hoa chuối tiêu thái nhỏ, luộc chín, trộn với muối vừng hoặc muối lạc
rang, ăn 2-3 bữa liền.
Chữa táo bón: Chuối 2 quả, để cả vỏ, nấu chín ăn, dùng nhiều lần.
Chữa tăng huyết áp: Vỏ và cuống quả chuối tiêu 30-60 g, sắc uống, dùng nhiều lần.
K.Y (st)/Baobinhdinh

quýt 6g, hạt sen 12g. Tất cả sao vàng, tán bột, ngày uống 30g, chia ba lần, hoặc sắc uống ngày một thang.
Bài 5: Chữa táo bón, suy nhược cơ thể: lá dâu (đồ chín, phơi khô) 500g, vừng đen sao 250g, con tằm (đồ chín, sấy
khô) 250g. Tất cả tán bột, lấy kẹo mạch nha hoặc mật ong làm viên, sấy khô. Ngày uống 20g, chia hai lần.
Phòng bệnh
- Tìm nguyên nhân gây bệnh và điều trị kịp thời.
- Giữ vệ sinh ăn uống, nên ăn điều độ và cân đối khẩu phần ăn.
- Không ăn thức ăn ôi thiu và thức ăn bảo quản lạnh quá lâu.
- Giữ tinh thần ổn định, không lo lắng quá nhiều đến bệnh.
(Ngày 15/9/2004 - Báo SK&ĐS)
28. Chữa ngủ mê bằng đông y
Bản chất của giấc ngủ là một quá trình ức chế lan khắp vỏ não và lan xuống cả các phần ở dưới vỏ não. Lúc thức,
hoạt động của vỏ não do những điểm hưng phấn và ức chế xen kẽ nhau, hạn chế lẫn nhau, ức chế không khuyếch tán
lan toả được, vì thế không ngủ.
Khi ức chế chiếm ưu thế, nó sẽ phá tán sự hạn chế của hưng phấn, khuyếch tán khắp vỏ não, lan xuống phần dưới
vỏ não và tạo được giấc ngủ.
Giấc ngủ được sử dụng như một phương pháp điều trị một số bệnh. Giấc ngủ đối với người ốm là một trong những
biện pháp tốt cho việc hồi phục sức khoẻ. Kéo dài giấc ngủ sinh lý của bệnh nhân là một trong những việc cần làm trong
bệnh viện.
Ngủ mê, nói sảng là bệnh lý có hại cho sức khoẻ, bạn cần đến khám ở chuyên khoa thần kinh để tìm nguyên nhân
và được chữa trị.
Theo y học cổ truyền, “tâm tàng thần, chủ thần chí” cho nên hiện tượng ngủ mê, nói sảng có quan hệ đến tạng tâm,
thuộc phạm trù chính xung do rối loạn nhịp tim hoặc do tâm thận bất giao (thuỷ hoả vị tế).
Có thể dùng các bài thuốc dưới đây chữa chứng mê ngủ.
Bài 1: Nhân sâm 4g, đương quy 16g, bạch thược 16g, ngũ vị tử 4g, táo nhân 20g, mạch môn 20g, bạch truật 16g,
bồi mẫu 6g, liên tâm 8g, lạc tiên 20g.
Bài 2: Thục địa 20g, sơn thù 12g, nhân sâm 6g, đương quy 16g, táo nhân 12g, bạch giới tử 12g, mạch môn 16g,
nhục quế 2g, hoàng liên 8g.
Cho 750ml nước (3 bát) vào thang thuốc, đun kỹ lấy 250ml nước thuốc (1 bát). Sắc tiếp lần 2 như lần 1. Trộn 2 bát
thuốc vào nhau uống 3-4 lần trong ngày. Mỗi ngày uống một thang. Các vị thuốc trên có thể mua ở các hàng thuốc đông
dược.

Bài thuốc của Đào Ẩn Cư
Thanh mộc hương (mật hương), hoắc hương, kê thiệt hương (mẫu đinh hương), hồ phấn (diên phấn) mỗi thứ 30 g.
Nghiền nhỏ mịn các dược liệu. Lấy vải bọc thuốc lại, hằng ngày để vào trong hố nách. Khi nào thấy thuốc hết mùi thì
thay (thường khoảng 10-15 ngày).
Bài “thiên kim phương”
Tân di, xuyên khung, tế tân, đỗ hành, cảo bản mỗi thứ 4 g, ngâm vào giấm gạo thuần chất trong một đêm cho nở.
Đổ nước sắc lấy nước đặc, cất vào lọ đậy nắp để dùng dần. Trước lúc đi ngủ, lấy nước thuốc xoa vào da vùng hố nách,
xoa hằng ngày cho đến khi khỏi.
Bài “Dịch hương tán”
Mật đà tăng 15 g, sinh long cốt 30 g, hồng phấn 6 g, băng phiến 3 g, mộc hương 10 g, bạch chỉ 10 g. Từng vị tán
nhỏ mịn riêng biệt, sau trộn đều. Lấy vải bọc thuốc lại, hằng ngày vỗ vào da vùng hố nách nhiều lần.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
31. Cách nhận biết mật gấu thật
Y học cổ truyền gọi vị thuốc này là hùng đởm. Nhiều người bệnh dùng nó có tác dụng tốt; nhưng cũng
không ít người phàn nàn là bị phản ứng lở ngứa phải đi cấp cứu. Có thể họ dùng không đúng người, đúng
bệnh, cũng có thể họ mua phải mật gấu giả.
Ở Việt Nam có 3 loại gấu: gấu lợn có miệng giống miệng lợn; gấu chó thân hình nhỏ, tai ngắn, ngực có khoang chữ
V màu ngà; gấu ngựa lớn hơn gấu chó, có khoang chữ V trắng. Theo y học cổ truyền, mật gấu ngựa là tốt nhất, tiếp đến
là mật gấu lợn, gấu chó.
Có rất nhiều cách thử để nhận biết mật gấu thật hay giả. Thứ nhất, bạn hãy quan sát túi mật, khi cắt ra giữa đám
đen có hạt lổn nhổn màu vàng óng đặc trưng. Nếm thấy vị đắng, sau có cảm giác mát, ngọt, dính lưỡi. Nếu ngậm lâu sẽ
tan hết. Nếu là mật giả sẽ không dính lưỡi, không mát, không bóng, có mùi tanh khó ngửi.
Cách thử thứ 2 là dùng lửa đốt, mật gấu thật sẽ không cháy.
Cách thứ 3 là lấy 1 hạt trong túi mật thả vào cốc nước trong, sẽ thấy các sợi vàng thõng xuống đáy cốc, có khi hạt
mật còn quay tròn.
Cũng có thể nhỏ 1 giọt mật vào máu, máu sẽ tan và không đông. Hoặc hòa mật gấu trong nước cất, cho thêm một ít
đường kính, sau đó nhỏ 1-2 giọt axit sunfuric, bạn sẽ được một dung dịch màu đỏ rất đặc trưng nếu là mật thật.
20
Mật gấu vị đắng hơi ngọt, tính lạnh, có tác dụng: phá ứ hồi sinh (trong trường hợp ngã bất tỉnh); chữa đau nhức do
huyết ứ, chữa co giật, vàng da. Liều dùng từ 0,5 g đến 2 g, hòa nước uống hoặc cho vào cháo để ăn. Y học cổ truyền

- Bưởi 5-8 quả ép lấy nước, dùng lửa nấu đặc, thêm 500 g mật ong, 100 g đường phèn, 10 ml nước gừng tươi, cùng
nấu thành dạng cao, để nguội, đựng trong lọ. Mỗi lần dùng 15 ml, ngày 2 lần, dùng liền 5 ngày.
3. Hôi miệng, giải rượu
- Cơm bưởi 100 g, nhai nuốt dần dần.
- Bưởi 1 quả lấy nước, vỏ quít 10 g, gùng tươi 6 g, thêm đường đen lượng vừa nấu chung, mỗi ngày dùng 1 liều,
dùng liền trong 5 ngày.
4. Say tàu xe hay rối loạn tiêu hóa, miệng nhạt buồn nôn do cảm
Mứt bưởi 30-60 g, nhai nuốt dần.
5. Đau khớp hay té ngã sưng đau
Vỏ bưởi tươi 250 g, gừng tươi 30 g, cùng băm nhuyễn, đắp tại chỗ, mỗi ngày thay 1 lần.
6. Dị ứng da hay mẩn ngứa không rõ nguyên nhân
Bưởi da xanh 1 quả, cắt bổ nguyên quả, nấu nước thoa rửa tại chỗ, mỗi ngày làm 3 lần, đồng thời có thể ăn bưởi 60
g, mỗi ngày 3 lần.
7. Thoát vị bẹn, sa đì
Hạt bưởi 15 g, băm nhuyễn nấu nước uống, ngày uống 1 lần vào sáng và chiều.
8. Bong gân, sưng khớp do lạnh, chấn thương
Lá bưởi không kể liều lượng, nướng chín để nắn, xoa bóp hay nấu nước xông và ngâm tại chỗ.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
33. Tự chữa một số bệnh về tiểu tiện
21
Nếu bị tiểu tiện khó khăn hoặc không tiểu được sau phẫu thuật, có thể lấy tỏi tươi bóc hết vỏ, giã nát,
vắt lấy nước, nhỏ vào đầu đường niệu. Sau 3-5 phút, tình trạng trên sẽ bị giải trừ. Nếu nhỏ một lần chưa
có hiệu quả tốt thì nhỏ lần thứ 2, chắc chắn sẽ có kết quả mong muốn.
Sau đây là một số phương pháp đơn giản khác chữa các biểu hiện khác thường về tiết niệu:
- Sỏi đường niệu: Rễ và lá cây ngô tươi mỗi thứ 60 g, nấu lấy nước uống trong nhiều ngày, sỏi sẽ mòn dần.
Hoặc: Râu ngô và kim tiền thảo mỗi thứ 30 g, nấu lấy nước uống thường xuyên.
- Nước tiểu ngắn và đỏ: Khế tươi 2-3 quả giã nát, hòa với một cốc nước sôi để nguội, trộn đều, chia 2-3 lần uống
trong ngày.
- Thủy thũng do viêm thận: Ăn hành tây. Chất Meletin trong củ hành tây có tác dụng lợi niệu rất rõ rệt.
- Bí tiểu hoặc đau rát đường niệu khi tiểu: Lấy vỏ hạt đậu xanh nấu lên uống.

Để chữa ho, nhất là ho trẻ em, có thể lấy hoa đu đủ đực (chọn hoa mới nở) 10-20 g trộn với đường
trắng hoặc mật ong, hấp cơm trong 15-20 phút; sau đó lấy ra, nghiền nát; uống làm 2-3 lần trong ngày
với nước đun sôi để nguội.
Có thể kết hợp hoa đu đủ đực với các vị thuốc khác để chữa ho trong các trường hợp sau:
- Ho kèm theo mất tiếng:
Hoa đu đủ đực 15 g, lá hẹ 15 g, hạt chanh 10 g. Tất cả để tươi, nghiền nát rồi hòa với 20 ml, thêm ít mật ong hoặc
đường kính, uống làm 3 lần trong ngày. Dùng trong 2-3 ngày.
- Ho do viêm họng:
Hoa đu đủ đực 15 g, xạ can 10 g, củ mạch môn 10 g, lá húng chanh 10 g. Tất cả cho vào một bát nhỏ, thêm ít
muối, hấp cơm rồi nghiền nát. Ngày ngậm 2-3 lần, nuốt nước dần dần.
- Ho gà:
22
Hoa đu đủ đực 20 g (sao vàng), vỏ quýt lâu năm 20 g, vỏ rễ dâu 20 g (tẩm mật sao lên), củ bách bộ 12 g (phơi
khô), phèn phi 12 g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 3 lần. Trẻ em 1-5 tuổi mỗi lần uống 1-4 g; trẻ 6-10 tuổi mỗi
lần uống 5-8 g.
Hoặc: Hoa đu đủ đực, nghệ vàng mỗi thứ 15 g; trần bì 20 g (tẩm nước gừng sao lên), vỏ rễ dâu (tẩm mật rồi sao),
vỏ cây khế (sao vàng), chua me đất hoa vàng, cam thảo đất, lá chanh non mỗi thứ 30 g; rau má, lá lốt mỗi thứ 40 g. Tất
cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày. Dùng trong 5-7 ngày.
DS Đỗ Huy Bích, Sức Khỏe & Đời Sống
36. Dược thảo chữa suy dinh dưỡng trẻ em
Y học cổ truyền gọi suy dinh dưỡng ở trẻ em là chứng cam. Bệnh này luôn liên quan đến sự tích trệ
thức ăn nên được gọi là cam tích. Đông y có rất nhiều vị thuốc đạt kết quả tốt trong điều trị bệnh này.
Trong y học cổ truyền, suy dinh dưỡng độ 1 được chữa như tiêu chảy; độ 2 (tiêu chảy suy dinh dưỡng) gọi là tỳ hư,
gây chứng cam; độ 3 gọi là can cam (cam thể khô). Các dược thảo chữa cam gồm:
Bạch thược: Có tác dụng kháng khuẩn, ức chế co thắt cơ trơn, giảm đau; được dùng chữa đau bụng, tiêu chảy do co
bóp quá mạnh, ra mồ hôi trộm, tiểu tiện khó. Ngày dùng 6-12 g bạch thược sống, dạng thuốc sắc.
Bạch truật: Có tác dụng chống viêm, chống loét các cơ quan đường tiêu hóa, chống suy giảm chức năng gan, tăng
tiết mật, lợi tiểu. Là vị thuốc bổ dùng điều trị bụng trướng đầy, ăn chậm tiêu, nôn mửa, tiêu chảy, phân sống, viêm ruột
mạn tính. Ngày dùng 6-12 g dưới dạng thuốc sắc hoặc bột.
Cà rốt: Ngoài công dụng làm thức ăn, cà rốt được dùng cho người gầy còm, thiếu máu, ăn uống chậm tiêu, chữa lỵ

thang. Nếu do tích trệ thức ăn, bụng trướng, thêm đại phúc bì, sơn tra, thần khúc mỗi vị 4 g. Nếu do nhiễm giun gây tích
trệ, đau bụng, thêm sử quân tử 4 g.
- Hoàng liên, thần khúc, mạch nha mỗi vị 6 g; bạch truật, trần bì, cam thảo, nga truật, thanh bì, sử quân tử, hoàng
liên mỗi vị 4 g; binh lang, tam lăng mỗi vị 2 g, lô hội 0,2 g. Sắc uống ngày một thang.
- Hoài sơn, ý dĩ, mạch nha mỗi vị 100 g; đẳng sâm, bạch truật mỗi vị 50 g; hạt cau, vỏ quýt mỗi vị 25 g. Tất cả sao
vàng, tán thành bột mịn, trộn đều, mỗi ngày uống 16-20 g bột.
- Chữa suy dinh dưỡng, tiêu chảy do nhiễm giun: Sơn dược, đậu ván trắng, sử quân tử, thần khúc mỗi vị 80 g;
hoàng liên, sơn tra, bạch đậu khấu mỗi vị 40 g; binh lang 20 g, ngân sài hồ, mạch nha mỗi vị 6 g; lô hội 5 g. Tán nhỏ
làm viên, ngày uống 4-8 g.
Điều trị suy dinh dưỡng thể khô
23
Bệnh do khí huyết hư, can thận hư, gọi là can cam, tương ứng với suy dinh dưỡng độ 3. Triệu chứng: Người gầy, da
khô, bộ mặt già, tinh thần mệt mỏi, kém ăn, tiếng khóc nhỏ, rêu lưỡi mỏng khô, lông, tóc khô. Ngoài ra còn có các triệu
chứng khác như khô loét giác mạc, loét miệng, tử ban (lắng đọng sắc tố), phù thũng… Phương pháp chữa là bổ khí
huyết, bổ can, thận tỳ vị.
- Thục địa 12 g; hà thủ ô, kê huyết đằng, ý dĩ, đậu đen, hạt sen mỗi vị 8 g; bạch truật, ngũ gia bì, kê nội kim mỗi vị
6 g. Sắc uống ngày một thang.
- Hoài sơn (sao) 60 g; phục linh, đậu ván trắng, sơn tra, mạch nha, thần khúc, đơn quy mỗi vị 45 g; bạch truật
(sao), trần bì, sử tử quân, mỗi vị 30 g; hoàng liên, cam thảo mỗi vị 20 g. Tán bột, rây mịn, trộn với mật ong hoàn thành
viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 3 g, ngày uống 2-3 lần.
- Đẳng sâm, bạch truật, thục địa, xuyên khung, đơn quy, bạch thược mỗi vị 8 g; phục linh 6 g; cam thảo 4 g. Sắc
uống ngày một thang. Nếu loét khô giác mạc, thêm kỷ tử, cúc hoa mỗi vị 8 g. Nếu loét miệng, thêm ngọc trúc, thăng ma
mỗi vị 6 g; hoàng liên 4 g. Nếu tử ban (lắng đọng sắc tố) thêm hoàng kỳ, a giao. Nếu có sốt mà xuất huyết, thêm sinh
địa, rễ cỏ tranh mỗi vị 12 g; đan bì 6 g. Nếu có phù dinh dưỡng, thêm phục linh 12 g, quế chi 2 g.
Theo VTV
37. Những món ăn “không đội trời chung” với nhau
Một số loại thực phẩm khi nấu chung, hoặc đưa vào cơ thể cùng một lúc có thể tương tác nhau gây
tình trạng khó tiêu hóa, ngộ độc hoặc nhiễm độc lâu dài cho cơ thể.
Trong chế biến món ăn, cũng như món ăn bài thuốc trị bệnh, nên lưu ý tránh những thức ăn “kị” nhau. Dưới đây là
một số lời khuyên của thầy thuốc Đông y, được đúc kết từ lâu đời:

Theo dinh dưỡng học hiện đại, móng giò lợn khá giàu chất dinh dưỡng, ngoài đạm và chất béo còn có nhiều canxi,
phốt pho, sắt, magiê, mangan, kẽm, các vitamin B, A. Ngoài ra, móng giò còn có systine, myoglobin và là nguồn cung
cấp collagen rất tốt. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng: người già và người gầy yếu nếu thường xuyên ăn
móng giò sẽ cải thiện được chức năng tích nước kém của các tế bào mô, thúc đẩy quá trình tạo hemoglobin và hồng
cầu.
Để phát huy hiệu quả bổ dưỡng và chữa bệnh của loại thực phẩm này, người xưa thường sử dụng móng giò trong
các món ăn - bài thuốc:
Sản phụ thiếu máu, thiếu sữa:
24
Móng giò 2 cái (chừng 600 g), đương quy 30 g, nước sạch 1.000 ml. Móng giò làm sạch, chặt miếng, chần qua nước
sôi rồi đem hầm kỹ với đương quy, khi nhừ chế đủ gia vị, ăn nóng.
Móng giò 2 cái, đậu tương 100 g, nước sạch 1.500 ml, hành 50 g, gừng tươi 10 g và gia vị vừa đủ. Móng giò làm
sạch, chặt miếng, chần qua nước sôi; đậu tương đãi sạch. Hai thứ cho vào nồi hầm kỹ, khi nhừ chế đủ gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày.
Móng giò 2 cái, lạc nhân 200 g, gừng 10 g, hành 50 g, muối 5 g, rượu trắng 2 thìa canh, nước sạch 1.500 ml. Móng
giò làm sạch, chặt miếng, cho vào nồi hầm thật nhừ cùng với lạc nhân, khi được chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong
ngày.
Móng giò 2 cái, hoàng kỳ 18 g, đương quy 10 g, xuyên sơn giáp 8 g, thông thảo 6 g. Sắc kỹ hoàng kỳ, đương quy,
xuyên sơn giáp và thông thảo lấy nước bỏ bã rồi cho móng giò vào hầm thật nhừ, chế đủ gia vị, ăn nóng. Dùng thích
hợp cho phụ nữ sau khi sinh con thiếu sữa, sữa loãng, thiếu máu, da khô, chán ăn, đại tiện lỏng nát.
Chống nếp nhăn:
Móng giò 2 cái, lạc nhân 100 g, đại táo 10 quả, nước sạch 1.000 ml. Ngâm đại táo và lạc nhân trong nước chừng
nửa giờ rồi vớt ra; chân giò làm sạch, chặt miếng. Tất cả cho vào nồi hầm thật nhừ, khi được chế đủ gia vị, chia ăn vài
lần trong ngày. Công dụng: Bổ khí ích huyết, hoạt huyết, phòng chống nếp nhăn trên da mặt.
An thần, chữa động kinh:
Móng giò 2 cái, tim lợn 1 quả, địa du tươi 30 g. Móng giò làm sạch, chặt miếng, chần qua nước sôi; tim lợn rửa sạch,
thái miếng. Tất cả đem hầm thật nhừ trong lửa nhỏ, khi được chế đủ gia vị, ăn nóng. Công dụng: Bổ khí, dưỡng huyết,
an thần, thường dùng để chữa bệnh động kinh.
Chữa lở loét:
Lấy một bộ móng lợn, thêm hành tươi nấu kỹ, vớt bỏ bọt, cho thêm một chút muối rồi lấy nước đó rửa các vết

Thuốc bôi đắp làm khí huyết lưu thông, tiêu viêm, giảm đau: Bột cúc tần 800 g, bột quế chi 160 g, bột đại hoàng 80
g, sáp ong 200 g, dầu thầu dầu 2 lít. Các vị trên tán nhỏ, rây thành bột mịn, đun sôi dầu thầu dầu, cho sáp ong vào,
đánh tan, rồi tắt lửa, cho bột thuốc vào đánh nhuyễn làm thành cao. Dùng đắp.
25

Trích đoạn 10 bài thuốc trị tăng mỡ máu 4 bài thuốc Đông y chữa trị hội chứng mãn kinh
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status