Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố đà nẵng) - Pdf 40

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGễ TH HNH

TộI LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGễ TH HNH

TộI LừA ĐảO CHIếM ĐOạT TàI SảN
TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. NGUYN NGC CH

H NI - 2016



1.2.

Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm ....................... 12

1.3.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ...... 18

1.3.1.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ phong kiến..................................................................................... 18

1.3.2.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1945 đến trước 1985 ................................................................. 20

1.3.3.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời
kỳ từ 1985 đến trước 1999 ................................................................. 26

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999 ............. 29
2.1.

Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm


2.4.

Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................ 50

2.4.1.

Dấu hiệu lỗi ........................................................................................ 50

2.4.2.

Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội ............................................... 51

2.5.

Hình phạt và các biện pháp tư pháp .............................................. 52

2.5.1.

Hình phạt............................................................................................ 52

2.5.2.

Các biện pháp tư pháp ....................................................................... 58

2.6.

Phân biệt Tội lừa đảo với một số tội phạm khác .......................... 59

2.6.1.


Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 .............. 68

3.2.

Hoàn thiện pháp luật hình sự ......................................................... 76

KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ Luật hình sự

HĐTP:

Hội đồng thẩm phán

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

TP:


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt
của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam luôn khẳng định sở hữu là một quyền thiêng liêng được nhà nước bảo hộ
chống lại mọi hành vi xâm hại. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp
trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai,
Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ
chức, cá nhân theo giá thị trường [23, Điều 32].
Luật hình sự với vai trò bảo vệ, đã qui định hệ thống các tội xâm phạm
sở hữu, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc
đấu tranh, xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này. Điều 139 Bộ luật hình sự
năm 1999 qui định cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với đặc điểm
sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, đồng thời
cũng qui định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Trên
cơ sở qui định này tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình tố tụng quyết vụ án một
cách chính xác, khách quan công bằng và có hiệu quả.
Thực tiễn đấu tranh, xử lý tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa

1





Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, học viên quyết định lựa
chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Viê ̣t Na m
(trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này, tác giả luận văn đã tham khảo các giáo
trình, bài viết chuyên sâu cũng như các sách chuyên khảo, bình luận khoa học
về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả như: Uông Chu
Lưu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999
(Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Văn Bộ (2010),
“Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu” trong sách: Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức
Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội
phạm, Tập II), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tiến Dũng (2014),
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu
nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội...
Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu
rất sâu sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, tuy nhiên chưa có
công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối
liên hệ với một địa bàn cụ thể là thành phố Đà Nẵng, nhất là trong bối cảnh
Đà Nẵng là đô thị đang phát triển nhanh về mọi mặt, đặc biệt sự di chuyển tội
phạm của các tỉnh thành khác nhập cư vào thành phố Đà Nẵng và các cả tội



4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn biến của tội phạm để
rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích, nguyên nhân
và điều kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có lĩnh
vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng.
Khi viết đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự,
phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một
số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ
thống, phương pháp chuyên gia...
6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài
Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa
về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng,
chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu

1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình
sự Việt Nam
Khái niệm tội phạm được hình thành trong quá trình phát triển, hoàn
thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này được ra đời lần đầu tiên trong Bộ
luật hình sự 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được thông
qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã
phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể
hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc
hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù
hợp với hoàn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 được thông qua, trên cơ sở
kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nước
ta. Điều 8 BLHS 1999 quy định định nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”
Trên cơ sở khái niệm tội phạm, Bộ luật hình sự 1999 qui định các
nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm sở hữu.

7


Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu
như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu

hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về
"chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị
thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng
nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy
theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính
chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là
nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm
luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Trên cơ sở tiếp cận này, Bộ luật hình
sự 1999 qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu
của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật
bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, không
những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt
động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an
toàn xã hội… Vì vậy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người
khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu
của tập thể là cá nhân thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và
trật tự an toàn xã hội.
Thứ hai, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những
tội chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa
đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự
nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của
người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 36, tr. 1483.

9


Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển

của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội
bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo
khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm
đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội
coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích
chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được.
Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện
bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội
đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người
quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271.
Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội
phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm
lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan
hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải
thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ
quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã
hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm
lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó.

11




Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và
tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về
tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các
khía cạnh sau:
a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định
mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản nói chung, để phòng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái
niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp
lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu
pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền
giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm soát, quản lý
quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp
nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng
nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này.
Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có
tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội.
Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều
tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng
thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng
bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu.

chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan Nhà nước có

14


thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề trách nhiệm hình sự của người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Ở
nước ta, cơ sở của trách nhiệm hình sự được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật hình
sự: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể nhận thấy quy định vừa nêu bao hàm hai
nội dung: Thứ nhất, chỉ người nào phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình
sự; Thứ hai, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể khẳng định sự kiện pháp lý duy
nhất làm phát sinh trách nhiệm hình sự chỉ có thể là tội phạm. Tội phạm, hiểu
theo ý nghĩa pháp lý hình sự, là hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm do
luật định. Căn cứ pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế hay bất kỳ tội phạm nào khác chính là cấu thành tội
phạm. Cấu thành tội phạm của Tội lừa đảo được qui định trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung).
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự từ trước đến nay mặc dù vẫn
còn có những quan điểm khác nhau về vị trí của các yếu tố cấu thành tội
phạm, nhưng có một nội dung mà tất cả đều thống nhất đó là cụ thể hóa cơ sở
của trách nhiệm hình sự là việc hành vi đã thực hiện thỏa mãn các dấu hiệu do
luật định về tội phạm, được phản ánh trong cấu thành tội phạm các tội phạm
cụ thể. Điều này có nghĩa là phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với
các tội lừa đảo thực chất là phân tích các dấu hiệu pháp lý đặc trưng có ý
nghĩa định tội.
b. Trách nhiệm hình sự được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức
cụ thể phản ánh mức độ phải chịu trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Hình thức trách nhiệm hình sự (hay hình thức biểu hiện cụ thể của trách

với Tội lừa đảo không chỉ bó hẹp ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt được quy
định đối với tội phạm này, mà còn bao gồm cả nghĩa vụ chịu sự tác động của
các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, bị áp dụng các

16


biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự (hình phạt và các biện pháp tư
pháp) và bị mang án tích. Thậm chí, đối với cả các trường hợp được miễn
trách nhiệm hình sự thì trước khi xem xét tha miễn trách nhiệm hình sự, tính
chất tội phạm của hành vi mà người đó đã thực hiện và nghĩa vụ pháp lý phải
gánh chịu các biện pháp tác động mang tính hình sự (trách nhiệm hình sự)
cũng vẫn được khẳng định. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng
đối với người thực hiện hành vi phạm tội, bởi trách nhiệm hình sự phát sinh
ngay tại thời điểm người nào đó thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định miễn
trách nhiệm hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vừa là căn cứ
pháp lý ghi nhận hành vi của người được miễn trách nhiệm hình sự là tội
phạm và trách nhiệm hình sự của họ, vừa là căn cứ chấm dứt trách nhiệm hình
sự đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn trách nhiệm hình sự 35.
Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải gánh chịu trên thực tế
những hậu quả bất lợi mà luật quy định cho người đã thực hiện tội phạm đó,
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu trách nhiệm hình
sự và áp dụng hình phạt hay các dạng trách nhiệm hình sự khác trong trường
hợp này là không cần thiết và vì thế họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Khi người phạm tội bị tác động bởi hình thức trách nhiệm hình sự phổ
biến là hình phạt, hay ngay cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều
có hậu quả là họ bị mang án tích trong một thời hạn nhất định và bị ghi vào lý
lịch tư pháp. Trong thời gian chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì
tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Đối với các Tội lừa đảo, hình thức trách nhiệm hình sự được quy định

với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do họ gây ra.
1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam
thời kỳ phong kiến
Nhận thức được vai trò của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ chế độ
sở hữu nhằm củng cố, duy trì trật tự xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status