Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh hòa bình) - Pdf 34

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HNG

TộI TRộM CắP TàI SảN TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

Lấ TH HNG

TộI TRộM CắP TàI SảN TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: GS. TS. NGC QUANG

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

1.1.2.

Những đặc điểm của tội trộm cắp tài sản trong nhóm tội xâm
phạm sở hữu ........................................................................................ 10

1.2.

Sơ lược lịch sử quá trình hình thành qui định tội trộm cắp
tài sản trong pháp luật hình sự Việt nam ...................................... 11

1.2.1. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam trước
năm 1945 ............................................................................................ 11
1.2.2. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến nay ...................................................................................... 16
1.3.

Quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản .............. 24

1.3.1. Các dấu hiệu pháp lý về của tội trộm cắp tài sản ............................... 24
1.3.2. Chế tài hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ....................................... 48
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH VÀ NHỮNG KIẾN
NGHỊ, GIẢI PHÁP .................................................................. 58


2.1.

Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình từ 2010 đến 2014 ...................................................................... 58



Bộ luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

CHLB:

Cộng hòa liên bang

CHND:

Cộng hòa nhân dân

HLCC:

Hình luật canh cải

HVLL:

Hoàng Việt Luật Lệ

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao


61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống
nhân dân nâng cao, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội có
tiến bộ đáng khích lệ, vị thế nhà nước Việt Nam trên thế giới tăng lên. Có thể
thấy, mọi chủ chương chính sách, đường lối của Đảng đều nhằm mục tiêu:
“Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đảm bảo
thực hiện chủ chương đó trên thực tế nhà nước ta đã củng cố và triển khai tất
cả những chính sách nhằm bảo vệ con người về mọi mặt: tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cần thẳng
thắn nhìn nhận những tồn tại đã và đang len lỏi trong đời sống xã hội, làm
giảm giá trị cuộc sống lẽ ra có thể tốt đẹp hơn thế. Đó chính là tình hình tội
trộm cắp tài sản đang diễn biến phức tạp và gây không ít bức xúc trong xã
hội. Tội trộm cắp tài sản là một loại tội có tính phổ biến cao, luôn chiếm tỷ lệ
lớn trong các tội phạm nói chung và tội phạm sở hữu nói riêng. Bộ luật hình
sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã kế thừa các nội dung hợp
lý trong các đạo luật hình sự trước đây, tạo cơ sở pháp lý cho công tác đấu
tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử tại
Tòa án vẫn còn hiện tượng định tội danh sai dù trong nhóm tội xâm phạm sở
hữu, giữa tội trộm cắp tài sản với tội phạm khác có sự khác biệt căn bản về
dấu hiệu pháp lý. Về phương diện lý luận xung quanh khái niệm, dấu hiệu
pháp lý, giải pháp đấu tranh phòng chống còn nhiều ý kiến khác nhau đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu có hệ thống, sâu sắc vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài


2


và tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp nhất là các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe và các tội xâm phạm sở hữu, trong đó nổi cộm
lên là tội trộm cắp tài sản.
Những năm gần đây tình hình tội phạm trộm cắp tài sản có diễn biến
phức tạp với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng. Trên địa bàn tỉnh
đã xuất hiện những nhóm tội phạm có tính chất chuyên nghiệp, có sự phân
công chặt chẽ giữa các đối tượng tham gia từ khâu thực hiện tội phạm đến
tiêu thụ sản phẩm. Độ tuổi của người phạm tội ngày càng trẻ hóa, trong đó
không ít người có lối sống buông thả, mắc các tệ nạn xã hội. Nhiều đối tượng
từ các địa phương khác lợi dụng vị trí địa lý và đặc điểm địa lý của Hòa Bình
đã chọn Hòa Bình là nơi để ẩn náu, gây án, tiêu thụ tài sản phạm tội… làm
ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.
Nhận thấy việc nghiên cứu về tội Trộm cắp tài sản trên cơ sở số liệu ở
địa bàn tỉnh Hòa Bình mang tính cấp thiết không những về lý luận, mà còn là
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Để góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của
công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nâng cao chất lượng cuộc sống của
một địa bàn còn nhiều khó khăn đó là lý do tác giả chọn đề tài: “Tội trộm cắp
tài sản trong luật hình sự Việt nam (Trên cơ sở những số liệu ở địa bàn
tỉnh Hoà Bình)” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích của việc nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng và chống tội Trộm cắp tài sản đề xuất những giải pháp mang tính đồng
bộ, hệ thống về công tác phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả
nước nói chung và địa bàn tỉnh Hòa Bình nói riêng cho phù hợp với sự phát
triển của giai đoạn hiện nay nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng
pháp luật trên thực tế.

Ngoài ra còn một số bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí,

4


sách, báo khoa học đề cập tới tội trộm cắp tài sản như: “Quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về “tội trộm cắp tài sản” của tác giả Mai Bộ trên tạp chí
TAND số 9 năm 2005; “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của “tội trộm
cắp tài sản” khi định tội danh” của tác giả Trần Mạnh Hà trên tạp chí TAND
số 10 năm 2006; “Lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép để thu tiền
cước điện thoại đã có dấu hiệu phạm tội” trộm cắp tài sản” của tác giả Lê
Văn Luật trên tạp chí TAND số 21 năm 2004.
Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được về nội dung,
tình hình và thực trạng của tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên
một số địa bàn nhất định, từ đó rút ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm
tương ứng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách tổng thể, có hệ thống về tội trộm cắp tài sản trong luật
hình sự Việt nam trên cơ sở số liệu ở địa bàn tỉnh Hoà Bình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội trộm cắp tài sản.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: thực tiễn đấu tranh phòng và
chống tội trộm cắp tài sản (trên cơ sở số liệu ở địa bàn tỉnh Hòa Bình).
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước và pháp luật. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án,
quyết định của Tòa án về tội trộm cắp tài sản; các báo cáo tổng kết, số liệu
thống kê của các cơ quan có liên quan về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình.
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ

QUY ĐỊNH VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính
chất phổ biến trong xã hội. Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm này có
hiệu quả cần có nhận thức chính xác bản chất của loại tội này, làm sáng tỏ
khái niệm, dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm. Đã tồn tại hai
khuynh hướng khi qui định về về tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật
hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái
niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Khuynh hướng thứ hai
có qui phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Hai khuynh hướng
trên thể hiện rõ trong bộ luật Phong kiến Việt Nam trước đây. Bộ luật Hồng
Đức và Bộ luật Gia Long tuy có qui định nhiều về tội trộm cắp cụ thể nhưng
không có qui phạm định nghĩa về tội này. Ngược lại, Hình Luật Canh Cải
(HLCC) và Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) lại có qui định về khái niệm tội trộm
cắp tài sản. Ví dụ Điều 381 HLCC qui định: "Người nào dùng sự gian mà lấy
đồ (vật) của người ta, thì phạm tội ăn trộm" [22, tr. 141-149]. Khái niệm này
đã xác định được ba đặc điểm của loại tội trộm cắp tài sản đó là: Hành vi
phạm tội là hành vi lấy tài sản; việc lấy tài sản là trái pháp luật; đối tượng của
hành vi là tài sản của người khác. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không đầy
đủ, chưa thể hiện lỗi của người phạm tội, tính chất hành vi lấy tài sản và đặc
biệt là không thể hiện rõ ràng sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Thuật ngữ "dùng sự gian" dễ làm người đọc hiểu lầm
về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Các văn bản pháp luật hình sự của nhà

7


nước ta sau Cách mạng Tháng 8 lại thể hiện khuynh hướng thứ nhất, không
có qui phạm định nghĩa về tội trộm cắp tài sản, chỉ qui định tội danh một cách

pháp lý nào khác của tội phạm. Bộ luật hình sự CHND Trung Hoa không có
qui phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản, chỉ nêu tên tội danh,
Điều 264 BLHS CHND Trung Hoa qui định: "Người nào trộm cắp tài sản,
tiền bạc công hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù". Từ những dẫn chứng trên ta
thấy rõ một số nét tương đồng cơ bản trong pháp luật hình sự ở một số nước.
Sự khác biệt xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội, truyền thống lập pháp hình
sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của từng nước.
Giáo trình trường Đại học luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về tội trộm
cắp tài sản: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang
có chủ” [67, tr.383]; Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2Đinh Văn Quế “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của
người khác” [44, tr.196]. Khái niệm đã miêu tả dấu hiệu hành vi khách quan
của tội phạm, hành vi phạm tội là hành vi chiếm đoạt, việc chiếm đoạt được
thực hiện lén lút, tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc sở hữu của chủ sở
hữu. Tuy nhiên, khái niệm trên không thể hiện rõ một số dấu hiệu pháp lý
khác của tội trộm cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng
lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm.
Để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần khẳng
định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà
theo TSKH.PGS Lê Cảm là phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của
nó là: a) bình diện khách quan- tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b)
bình diện pháp lý- tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ
quan- tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [11, tr.105].
Tổng kết các quan điểm trên ta có thể đưa ra một khái niệm về tội trộm
cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản

9


thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm


Theo Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng - NXB Văn hóa
thông tin - 2004, giải nghĩa từ “lén lút” là hành vi: cố giấu diếm, vụng trộm
không để lộ ra do có ý gian. Trong tội trộm cắp tài sản, hành vi “lén lút”
chiếm đoạt tài sản phải có đầy đủ những dấu hiệu này, thiếu một trong những
dấu hiệu đó sẽ không thể hiện được bản chất của sự "lén lút". Nói cách khác,
"lén lút" là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng
trộm, giấu diếm không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt
trái phép tài sản của họ. Tính chất lén lút của hành vi trộm cắp tài sản thể hiện
ở chỗ người phạm tội dấu diếm hành vi phạm tội của mình.
Tuy nhiên lén lút không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài
sản bởi trong nhiều tội phạm khác cũng có dấu hiệu lén lút nhưng là để thực
hiện một mục đích khác như: Lẻn vào nhà thực hiện hành vi hiếp dâm; lẻn
vào nhà giết người...vì vậy lén lút mà không đi kèm với hành vi chiếm đoạt
tài sản thì không phải trộm cắp tài sản. Có thể nói trộm cắp tài sản là chiếm
đoạt tài sản bằng hành vi lén lút.
1.2. Sơ lược lịch sử quá trình hình thành qui định tội trộm cắp tài
sản trong pháp luật hình sự Việt nam
Để giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và toàn diện về quan niệm của
nhà lập pháp trong chế độ xã hội khác nhau về tội phạm và hình phạt, từ đó
nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về bản chất, dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội
phạm và chính sách hình sự của nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài
sản sau đây chúng ta lần lượt nghiên cứu các qui định pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản trong lịch sử. Đây là bài học rất có ích trong cuộc đấu tranh
phòng chống tội trộm cắp tài sản trong xã hội chúng ta ngày nay.
1.2.1. Tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam trước
năm 1945
Tư liệu lịch sử còn lại ghi nhận, trước Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ),

11


12


Thứ ba, các nhà lập pháp Phong kiến quan niệm, tội trộm cắp tài sản là
hành vi lấy tài sản của người khác. Do có quan niệm như vậy nên trong
BLHĐ không có sự phân biệt rõ rệt giữa tội trộm cắp tài sản với tội tham ô tài
sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Hành vi tham ô, cướp, cưỡng đoạt, cướp giật hoặc lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp nhất định được coi là tội trộm cắp
tài sản. Ví dụ qui định: Đạo sĩ, nữ quan (đàn ông, đàn bà chuyên theo đạo), sư
ni (sư tăng, ni cô) lấy tượng thần, tượng Phật trong đền chùa nơi họ cúng lễ
thì bị xử về tội trộm cắp tài sản (Điều 433); Quan giám lâm (người trông coi
việc xét án, khám nghiệm), người coi kho lấy tài sản trong kho cũng được coi
là tội trộm cắp tài sản.
Thứ tư, hình phạt không chỉ được áp dụng với cá nhân người phạm tội
trộm cắp tài sản mà còn có thể được áp dụng với người thân thích trong gia
đình như qui định tại Điều 457:
Các con còn ở nhà với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha mẹ bị
xử tội biếm; ăn cướp thì cha mẹ bị xử tội đồ; nặng thì xử tăng
thêm tội và đều phải bồi thường thay con những tang vật ăn trộm,
ăn cướp. Nếu con đã ra ở riêng, thì cha bị xử tội phạt hay biếm;
cha đã báo quan thì không phải tội; nhưng đã báo quan rồi mà còn
để con ở nhà thì xử như chưa báo.
Trong thời kỳ phong kiến, ngoài BLHĐ, Bộ luật Gia Long (BLGL)
cũng qui định về tội trộm cắp tài sản. BLGL được ban hành năm 1985 với
398 Điều [39, tr.110- 118], [61, tr.174] nghiên cứu BLGL về tội trộm cắp tài
sản ta thấy:
Thứ nhất, Qui định về tội trộm cắp tài sản trong BLGL đã kế thừa BLHĐ.
BLGL qui định về tội trộm cắp tài sản tập trung tại chương "Đạo tặc" với 28

chính trị khác nhau để thực hiện chính sách "Chia để trị". Trong hoàn cảnh xã
hội đặc biệt này có những văn bản pháp luật hình sự khác nhau được áp dụng

14


tại Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Trung Kỳ. Ở Nam kỳ sắc luật ngày 31 tháng 12 năm
1912 của Toàn quyền Đông Dương sửa đổi 56 Điều của BLHS Pháp thành
Hình luật canh cải (HLCC) và áp dụng tại Nam Kỳ; Ở Bắc kỳ, Nghị định
ngày 2 tháng 12 năm 1921 của toàn quyền Đông Dương cho áp dụng Luật
hình An Nam. Ở Trung Kỳ, bằng Dụ số 43 ngày 31 tháng 7 năm 1933 của
Bảo Đại, Hoàng Việt hình luật được ban hành [32, tr.33]. Nghiên cứu HLCC
cho thấy:
Thứ nhất, HLCC tuy được biên soạn theo BLHS Pháp nhưng đã kế
thừa một số nội dung hợp lý của BLHS Phong Kiến trước đây khi qui định về
tội trộm cắp tài sản. Các tội trộm cắp tài sản cụ thể được qui định căn cứ vào
đối tượng tài sản bị chiếm đoạt và hoàn cảnh phạm tội bao gồm: tội trộm cắp
đồ thờ cúng (Điều 386); Tội trộm cắp trâu bò, (hoặc) gia súc khác (Điều 388);
Tội trộm cắp cá ở ao, hồ (Điều 388); Tội trộm cắp lúa má ngoài đồng (Điều
388); Tội của chủ quán cơm, chủ khách sạn; người đưa xe; người chở ghe
trộm cắp tài sản của khách (Điều 386); Tội đầy tớ lấy trộm tài sản của khách
(đến) nhà chủ (Điều 386); Tội ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, trộm cắp tài sản
của nhau (Điều 380) và tội đàn ông góa vợ hoặc đàn bà góa chồng trộm cắp
tài sản của vợ hoặc chồng đã chết (Điều 380)...
Thứ hai, về kỹ thuật lập pháp hình sự, HLCC có bước phát triển đáng
kể so với Bộ luật hình sự Phong kiến trước đây, bởi lẽ có qui phạm định
nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản tại Điều 379: "Người nào dùng sự
gian mà lấy đồ gì của người ta, thì phạm tội trộm cắp". Ngoài ra Bộ luật còn
qui định các tình tiết tăng nặng TNHS của tội trộm cắp tài sản tại các Điều
381; 384; 385. Đó là các tình tiết: a. Trộm cắp tài sản ban đêm; b. Trộm cắp

định kỷ cương, pháp luật và đối phó với tình hình thực tế nhà nước ta đã đặc
biệt trú trọng và lần lượt ban hành các văn bản pháp luật sau đây về tội trộm
cắp tài sản: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25 tháng 2 năm 1946 trừng trị tội phá
hoại công sản; Sắc lệnh số 73-SL ngày 17 tháng 8 năm 1947 về các tội vi

16


cảnh; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12 tháng 3 năm 1949 về tội trộm cắp của nhà
binh; Thông tư 26-BK ngày 9 tháng 5 năm 1949 của Bộ tư pháp hướng dẫn
đường lối xử lý hành vi bắt được của rơi mà giữ lấy không trả hoặc không
nộp cho nhà chức trách; Thông tư số 11-BK ngày 14 tháng 12 năm 1949 của
Bộ nội vụ, Bộ quốc phòng và Bộ tư pháp ấn định phương pháp đối phó với
các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự; Nghị định 32-NĐ ngày 6 tháng 4 năm
1952 của Bộ tư pháp qui định đường lối xét xử của tội trộm cắp, lừa đảo
biển thủ tài sản... [4, tr.115, 135-137]. Nghiên cứu các văn bản này cho thấy:
Qui định về tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn này đã tạo cơ sở kịp thời
cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản, góp phần vào cuộc
kháng chiến chống thực dân pháp. Qui định về tội trộm cắp tài sản trong giai
đoạn này đã kế thừa, phát triển những qui định trước đây. Ví dụ thông tư 11BK qui định về tình tiết lợi dụng hoàn cảnh khó khăn trong hoàn cảnh chiến
tranh hoặc phạm tội tại vùng có chiến sự thì bị xử phạt nghiêm khắc.
Nhược điểm của văn bản qui phạm pháp luật thời kỳ này là chưa có
sự phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữa trái phép tài sản.
Thông tư 16-BK qui định: "Bắt được của cải gì của người ta mà giữ làm
của mình bị coi là ăn cắp...có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, lại
còn bị phạt tiền nữa".
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 30 tháng 6 năm 1955, Bộ tư pháp
ban hành thông tư 19-VHH chấm dứt áp dụng văn bản pháp luật Phong kiến,
thực dân. Để đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả và bảo vệ trật tự xã
hội, nhà nước ta ở thời kỳ này ban hành nhiều văn bản về tội trộm cắp tài sản

định tại Điều 6. Các Điều luật này đều bao gồm một cấu thành tội phạm cơ
bản và hai cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết tăng nặng định
khung cụ thể. Ngoài ra hai pháp lệnh còn qui định nhiều tội xâm phạm sở hữu
khác. Thông qua các qui định cụ thể ta thấy các nhà lập pháp thời kỳ này đã

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status