Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh hà giang) - Pdf 39

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH QUí

ĐồNG PHạM TRONG TộI TRộM CắP TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH QUí

ĐồNG PHạM TRONG TộI TRộM CắP TàI SảN
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN KHC HI

H NI - 2016


1.1.1.

Khái niệm đồng phạm.................................................................................... 8

1.1.2.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản ....................................................................... 9

1.1.3.

Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ........................................ 11

1.2.

Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................................ 13

1.2.1.

Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ....................................... 13

1.2.2.

Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ............................. 16

1.2.3.

Chủ thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ........................................... 19

1.2.4.


2.4.1.

Nguyên nhân về pháp luật ........................................................................... 68

2.4.2.

Nguyên nhân về áp dụng pháp luật ............................................................. 76

Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỒNG PHẠM ĐỐI VỚI TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN .............................................................................. 79
3.1.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng các
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản.......................................................................................... 79

3.2.

Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLHS Việt
Nam về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ....................................... 88

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 96


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm
cắp tài sản từ năm 2010 -2015 trên địa bàn tỉnh Hà Giang

32

Bảng 2.2. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm
cắp tài sản có đồng phạm từ năm 2010 -2015 trên địa bàn
tỉnh Hà Giang

34

Bảng 2.3. Bảng những loại người đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản

36

Bảng 2.4. Bảng áp dụng hình phạt đối với các bị cáo đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản

39

Bảng 2.5. Bảng kết quả xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo trong
các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm


hiểu sâu sắc các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về đồng

1


phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm
cắp tài sản có đồng phạm.
Tuy nhiên thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về
đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những
ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có
đồng phạm. Do quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn
thiện, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội trộm cắp
tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm, xác định vai
trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm còn chưa thống nhất,
chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang.
Những tồn tại, hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan,
song việc xác định, đánh giá đồng phạm trong các vụ án trộm cắp tài sản thiếu
chính xác sẽ dẫn đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết
định hình phạt đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng
hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ.
Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Đồng phạm
trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa
bàn tỉnh Hà Giang) là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện và áp dụng
đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự được nghiêm minh,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là những vấn đề có nội dung phong
phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề
cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội

trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh
phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị
Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân,
Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương

3


(2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai
đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
Hà Nội… và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: Lê Văn Cảm (2005)
“Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND; Lê Thúy
Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong BLHS”,
Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp
luật hình sự”, Tạp chí Luật học; Bộ Tư pháp (1998),“Luật hình sự của một số nước
trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề; TS.Nguyễn Khắc Hải
(2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang
Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ
chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999…
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về
trường hợp đồng phạm hoặc tội trộm cắp tài sản, nhưng chưa công trình nào đi sâu
vào các khía cạnh đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản cả về phương diện lý luận
và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực
tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách

pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp
luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học,
thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng
như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước
và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước
trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên
quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các
cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau.
Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong
nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến
những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp
quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người.

5


Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các
phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các
phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh,
logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương
pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả
nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch
sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa
ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án
cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật hình sự có liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
8. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái
niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; Dấu hiệu pháp lý của

cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công
tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp
tài sản có đồng phạm được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
10. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
theo Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội
trộm cắp tài sản.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm đồng phạm
“Đồng” theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác
được. “Phạm” là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng
phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự” [3, tr. 245].
Nghiên cứu pháp luật hình sự các nước, chúng ta thấy quan niệm không
giống nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế
giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng:

học về khái niệm đồng phạm như sau:“Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý
được thực hiện với sự tham gia của 2 người trở lên” [5, tr. 458].
1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ
biến trong xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khi quy định về
tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không
đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa
nhận nó. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là điển hình cho khuynh hướng này, Điều
264 Bộ luật hình sự nước này quy định: “Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công
hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù”.
Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài
sản. Các nước như Liên bang Nga, Cộng hòa liên băng Đức, Nhật Bản, Malaixia,
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào… đều thuộc khuynh hướng này. Điều 158 Liên
bang Nga năm 1986 quy định: “Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của
người khác” [2, tr. 32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ
bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản
được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác.
Điều 142 BLHS của Cộng hòa liên băng Đức được ban hành năm 1871 và được sửa
đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái
niệm của tội trộm cắp tài sản: “Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với

9


mục đích chiếm đoạt vật này, thì bị phạt tù đến năm năm hoặc phạt tiền”. Khái niệm
này cho thấy đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là động sản, bất động sản
không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Điều 253 BLHS Nhật Bản
ban hành năm 1907 đã sửa đổi bổ sung nhiều lần cũng quy định: “Người nào lấy
cắp tài sản của người khác thì bị phạt tù đến 10 năm”. Như vậy, bộ luật chỉ xác
định đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác, không

trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách có lỗi [4, tr.105].
Tổng kết các quan điểm trên ta có thể đưa ra một khái niệm về tội trộm cắp
tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc
quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý.
1.1.3. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản
Tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ thực
hiện bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người mà giữa họ đã có sự
thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường hợp phạm tội đặc biệt này
trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm.
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, chúng ta thấy vấn đề đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản đã được luật hình sự Việt Nam quy định từ rất sớm.
Trong thời kỳ phong kiến, Bộ luật Gia Long đã có quy định về trường hợp đồng
phạm trong tội trộm cắp tài sản tại Điều 238: “10 người cùng ăn trộm của cải một
nhà, tính tang của (giá trị tang vật) đến 40 lạng bạc dẫu chia nhau, mỗi người được 4
lạng, nhưng mà tính gộp một chỗ thì 10 người đều phải ăn trộm 40 lạng” nghĩa là đối
với giá trị tài sản bị chiếm đoạt được tính gộp lại và những người đồng phạm đều
phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm. Ở thời Pháp thuộc, Hình Luật Canh Cải bên
cạnh việc đưa ra quy định về khái niệm tội trộm cắp tài sản tại Điều 379 còn quy định
về trường hợp “Trộm cắp tài sản có từ hai người trở lên tham gia” là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự của Tội trộm cắp tài sản. Sau này trong Hình luật An Nam
và Hoàng Việt Luật Lệ cũng sao chép lại quy định này từ Hình Luật Canh Cải.

11




12


02/HĐTP ngày 05/01/1986 khi giải thích khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 về
"Phạm tội có tổ chức" thì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm, sự câu kết này, theo hướng dẫn của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có thể thể hiện dưới các dạng sau:

a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái,
hội đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những người chỉ huy, cầm đầu. Tuy
nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập
trung những người chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội;

b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế
hoạch đã thống nhất trước;

c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức
thực hiện tội phạm theo một kế hoạch đã được tính toán kỹ càng, chu đáo, có sự chuẩn
bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm.
Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với hình thức
đồng phạm thông thường nên Điều 138 BLHS năm 1999 quy định tình tiết “phạm tội
có tổ chức” là tình tiết định khung tăng nặng (điểm a Khoản 2 Điều 138 BLHS).
Ngoài ra, đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành
động mà còn có đồng phạm không hành động, đó là trường hợp những người đồng
phạm trộm cắp tài sản không hành động phạm tội, ví dụ: A đã thỏa thuận với B là
bảo vệ của cơ quan không khóa cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài sản của
cơ quan. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là người
thực hành còn B là người giúp sức (không hành động).
Với các phân tích trên cho thấy đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là việc

Vật là một hình thức tài sản và có thể trở thành đối tượng tác động của tội
trộm cắp tài sản. Khi là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản, vật phải nằm
trong sự chiếm hữu của con người. Đối với trường hợp người chủ sở hữu chủ
động từ bỏ quyền sở hữu của mình và dịch chuyển tài sản ra khỏi phạm vi quản
lý, thì tài sản này được coi là tài sản vô chủ, hành vi lấy đi loại tài sản này không
bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản [18, tr. 25]. Hành vi lấy đi tài sản của mình,
do mình quản lý hoặc tài sản không còn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản
như tài sản bị bỏ quên, đánh rơi, tài sản vô chủ thì không phải là hành vi trộm
cắp tài sản. Các hành vi này có thể cấu thành tội khác như tội chiếm giữ trái
phép tài sản (Điều 141 BLHS).
14


Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản còn có thể là tiền, các
loại giấy tờ trị giá được bằng tiền. Tiền bao gồm tiền Việt Nam và tiền nước ngoài.
Những loại tiền cũ có giá trị văn hóa [14, tr. 37].
“giấy tờ có giá”, chỉ có giấy tờ có giá vô danh mới có thể trở thành đối
tượng tác động của tội trộm cắp tài sản vì khi lấy nó người phạm tội mới thực hiện
được quyền của chủ sở hữu, còn với giấy tờ có giá ghi danh chỉ có chủ sở hữu mới
có thể thực hiện được quyền sở hữu của mình nó không thể bị dịch chuyển một cách
trái phép bởi hành vi chiếm đoạt. Đối với tài sản là “quyền tài sản” như quyền đòi
nợ..., nó tồn tại dưới dạng vô hình không nhìn thấy sờ thấy nó gắn liền với một chủ
thể nhất định, trình tự xác lập thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản đó tuân theo
quy định pháp luật và không thể bị dịch chuyển trái phép bởi hành vi chiếm đoạt
nên “quyền tài sản” cũng không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản.
Tài sản là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải tồn tại dưới dạng
một động sản theo quy định của BLDS. Những tài sản thuộc loại bất động sản có
tính chất vật lý cố định không di dời được như đất đai, nhà cửa... không là đối tượng
tác động của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên có một số tài sản nếu tách riêng thì nó
là động sản nhưng luật dân sự quy định là bất động sản do công dụng của nó như

chính là khách thể của tội trộm cắp tài sản (do một người thực hiện).
1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm
Nghiên cứu mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản, chúng ta lần lượt
nghiên cứu về hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội trộm
cắp tài sản.
Thứ nhất, hành vi khách quan đặc trưng của tội trộm cắp tài sản. Điều 138 Bộ
luật hình sự không mô tả thế nào là hành vi trộm cắp tài sản mà chỉ quy đinh: Người
nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ… thì… Như vậy, hành vi khách
quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi trộm cắp, biểu hiện cơ bản nhất trong mặt
khách quan của tội phạm. Hành vi khách quan đặc trưng của tội trộm cắp tài sản là
hành vi lén lút lấy đi tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt tài sản của
người đó. Lén lút có nghĩa là người phạm tội có ý thức che giấu hành vi phạm tội của
mình đối với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản khi phạm tội. Trường hợp người
lấy tài sản chỉ che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người chủ sở hữu hoặc

16


người quản lý, bảo vệ tài sản nhưng lại để người khác thấy được hành vi phạm tội của
mình thì vẫn phạm tội trộm cắp tài sản [70, tr. 176]. Trong nhiều trường hợp, người
phạm tội có ý định trộm cắp tài sản và khi đang thực hiện tội phạm đó thì bị phát
hiện, người phạm tội không thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản một cách lén lút nữa
mà thực hiện hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn khác thì hành vi phạm tội có thể cấu
thành các tội khác như tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS), tội cưỡng đoạt tài sản
(Điều 135 BLHS), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137 BLHS)…
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác phải do hai người trở lên
cùng tham gia thực hiện thì mới được coi là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Họ có thể tham gia tội trộm cắp tài sản với một trong các hành vi sau: hành vi thực
hành tội trộm cắp tài sản, người có hành vi này gọi là người thực hành; hành vi tổ

lên là trường hợp người phạm tội một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có giá
trị từ hai triệu đồng trở lên.
Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản, nhưng
mỗi lần giá trị tài sản dưới hai triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp
khác để truy cứu trách nhiệm hình sự. (gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành
chính, đã bị kết án nhưng chưa xóa án tích..), đồng thời trong các hành vi trộm cắp đó
chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt hành chính, thì
người thực hiện nhiều lần hành vi trộm cắp tài sản phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội trộm cắp tài sản theo tổng số giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu
thuộc một trong các trường hợp: các hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện một
cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, việc thực hiện các hành vi trộm cắp tài
sản có tính chuyên nghiệp, lấy tài sản do việc xâm phạm sở hữu làm nguồn sống
chính, với mục đích trộm cắp tài sản, nhưng do điều kiện hoàn cảnh khách quan nên
việc trộm cắp tài sản phải thực hiện trong nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm
phạm mỗi lần dưới hai triệu đồng. Trong các trường hợp nêu trên, nếu chỉ căn cứ vào
các hành vi vi phạm nhiều lần, thì không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự (TNHS) (phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội nhiều lần) quy định tại
các điểm b và g khoản 1 Điều 48 BLHS hiện hành [21, tr.217].
Ngoài dấu hiệu hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm, mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản còn dấu hiệu thứ ba, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm [4, tr.11-14].

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status