TIỂU LUẬN CHỐNG âm mưu DIỄN BIẾN hòa BÌNH của CHỦ NGHĨA đế QUỐC và các THẾ lực THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH vực CHÍNH TRỊ tư TƯỞNG, một số vấn đề lí LUẬN, THỰC TIỄN và GIẢI PHÁP cơ bản - Pdf 40

1

CHỐNG ÂM MƯU “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
VÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, TƯ
TƯỞNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP CƠ BẢN

1. Bản chất, mục tiêu của: “Diễn biến hoà bình”:
-“Diễn biến hoà bình” là chiến lược tiến công toàn diện của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động vào bên trong các nước xã hội chủ nghĩa và
các Đảng Cộng sản trên mọi lĩnh vực: chính trị-tư tưởng; kinh tế; văn hoá- xã
hội; quốc phòng- an ninh và đối ngoại, với tất cả các phương tiện, thủ đoạn,
nhằm từng bước chuyển hoá, đẩy lùi, đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội mà
không cần dùng đến lực lượng vũ trang. Do đó người ta thường gọi “Diễn
biến hoà bình” là cuộc “chiến tranh không cần chiến tranh”, “chiến tranh
không có khói súng”, một cuộc “cách mạng nhung lụa”.
- Mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hoà bình” là xoá bỏ Đảng Cộng
sản, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế trên phạm
vi toàn thế giới, làm thay đổi khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa
của các nước có khuynh hướng tiến bộ, đưa các nước này vào quỹ đạo tư bản
chủ nghĩa trong điều kiện không thể dành thắng lợi bằng biện pháp quân sự.
Thực chất của “Diễn biến hoà bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa
hai con đường để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới.
2. Chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch chống phá cách mạng Việt nam và quân đội ta hiện nay.
Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh
chiến lược diễn biến hoà bình để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
và các nước tiến bộ trên phạm vi toàn cầu, với những âm mưu thủ đoạn ngày




3

chủ nghĩa ở Việt Nam bằng phương pháp “diễn biến hoà bình” là một tiêu chí
đối với việc lập lại “trật tự thế giới mới” theo kiểu Mỹ, do Mỹ sắp đặt và chỉ
trên cơ sở đó mới có thể dễ dàng áp đặt mô hình “dân chủ và kinh tế thị
trường tự do” lên các nước khác.
Ba là, bị thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
Mỹ và các thế lực phản động quyết tâm giành lại “chiến thắng đã mất” trong
hoà bình bằng phương pháp “diễn biến hoà bình”, để nhằm xoá bỏ “hội chứng
Việt Nam” trong lòng nước Mỹ- một vết nhơ trong lịch sử hai trăm năm của
một cường quốc luôn tự nhận là “cảnh sát trưởng của thế giới”.
Bốn là, xét về địa- chính trị, Việt Nam án ngữ con đường biển huyết
mạch từ Bắc Á xuống Đông Nam Á và Ấn Độ Dương, “có quân cảng Cam
Ranh và từ đó có thể khống chế một phần lớn vùng biển Đông Nam Á”.
Năm là, về lợi ích kinh tế, với dân số hơn 84 triệu người, Việt nam là
một thị trường lớn thứ 2 ở Đông Nam Á, với lực lượng lao động có trình độ,
cần cù, giá nhân công rẽ so với nhiều nước. Việt Nam có tiềm năng về dầu
lửa, và nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, là thị trường mới về viễn
thông, hàng không, công nghệ tin học..đó là điểm mạnh trong cạnh tranh của
các công ty Mỹ. Như vậy việc thực hiện “diễn biến hoà bình” sẽ tạo điều kiện
cho giới doanh nghiệp Mỹ dễ bề làm ăn và thu được nhiều lợi nhuận hơn, tạo
điều kiện để lấn át các nước khác cũng đang tích cực tranh thủ đầu tư vào
Việt Nam.
*Hệ thống tổ chức lực lượng của các thế lực thù địch trong “diễn biến
hoà bình” để chống phá cách mạng nước ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Để thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài là xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Mỹ và các thế lực thù địch đã lần lượt dùng hết chiến lược này
đến chiến lược khác, hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, sử dụng nhiều



5

tiềm năng hợp tác triệt để với phương Tây”…Từ đó cố gắng tạo dựng lực
lượng chống đối từ trong nước, đặc biệt là trong nội bộ các cơ quan lãnh đạo.
Thông qua hoạt động viện trợ, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, giáo
dục, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, mang danh nghĩa hợp tác, đầu
tư, “viện trợ nhân đạo”…vào nước ta để nắm tình hình, xây dựng lực lượng
chống đối. Thông qua các lớp học các cuộc hội thảo, đi khảo sát tình hình cơ
sở…để truyền bá các quan điểm chống đối, tuyên truyền cái gọi là “tự do”,
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” theo kiểu phương Tây, áp đặt tự do
kiểu Mỹ, từ đó xây dựng lực lượng chống đối trong nước.
Hoạt động của các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn trong nước được các
lực lượng chống đối hết sức coi trọng. Chúng thường lợi dụng các diễn đàn,
các mối quan hệ để truyền bá những quan điểm sai trái của mình. Một số
người liên quan đến các vụ án trước đây, lợi dụng cơ hội đổi mới, dân chủ của
Nhà nước ta để viết đơn, thư, tài liệu, hồi ký, đòi Đảng, Nhà nước “sữa sai”,
“minh oan” cho họ. Một số người bất mãn hoặc có quan điểm sai trái, lệch
lạc, họ đồng tình, phụ hoạ với những luận điệu của các thế lực thù địch cũng
đua nhau viết tài liệu, hồi ký, sáng tác…đã kích sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước ta. Một số người là nguỵ quân, nguỵ quyền trong chế độ cũ trước đây
không chịu cải tạo, được sự khuyến khích, lôi kéo, kích động của bọn phản
động từ bên ngoài cũng liên tiếp viết đơn, thư, tài liệu vu cáo chính quyền và
Nhà nước ta trả thù, đàn áp những người đã từng làm việc cho chế độ Mỹ,
Nguỵ, tố cáo ta vi phạm “dân chủ, nhân quyền”…Toàn bộ hoạt động của các
đối tượng nêu trên tuy mỗi loại có biểu hiện khác nhau, với tính chất và phạm
vi khác nhau, mức độ khác nhau, nhưng tựu trung lại là đều nhằm tiến công
vào chế độ ta, đòi xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa mà Bác Hồ, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn.



7

- Lợi dụng những mâu thuẫn trong nhân dân như khiếu kiện, tranh chấp
đất đai, nhà cửa, mất dân chủ ở cơ sở.. các thế lực thù địch tập trung lực
lượng, núp dưới danh nghĩa “đấu tranh chống tham nhũng”, để kích động, gây
rối, mít tinh, biểu tình, gây mất ổn định chính trị- xã hội, làm tê liệt các tổ
chức đảng và chính quyền các cấp.
3. Tính chất nguy hiểm của chiến lược “Diễn biến hoà bình” trên lĩnh
vực chính trị, tư tưởng.
Các thế lực thù địch luôn xác định: “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
chính trị, tư tưởng là then chốt, mũi đột phá, là “cái cầu để dẫn vào trận địa”,
rằng “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đôla chi cho
quốc phòng”. Níchxơn trong cuốn sách: Chiến thắng không cần chiến tranh
(1999) đã viết: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “toàn bộ vũ
khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không
đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.
Trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, chủ nghĩa đế quốc và cá thế lực thù
địch quan tâm nhất là kích động “dân chủ”, “nhân quyền”, “vấn đề dân tộc”,
“vấn đề tôn giáo”, và đặc biệt là làm cho chúng ta tự diễn biến, tự chuyển hoá.
Chúng coi đó là những đòn đột phá khẩu, là những mũi xung kích để chọc
thủng mặt trận chính trị, tư tưởng của chúng ta. Tính chất nguy hiểm của âm
mưu “diễn biến hoà bình” biểu hiện ở chỗ:
Một là, với ý đồ làm tan rã niềm tin, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch xem việc đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen
lãnh đạo…làm cho xã hội hỗn loạn về chính trị, tư tưởng, mất định hướng
chính trị, tạo ra thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực
chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở

xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.


9

Tóm lại, sự nguy hiểm của âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng là chúng phá rã niềm tin, đánh từ trong đánh ra,
làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, chúng dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền”, “tôn giáo”…để tạo cớ can thiệp vào nội bộ ta. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ chế độ chủ nghĩa xã hội, là do chủ nghĩa đế
quốc đã lợi dụng những sai lầm về chính trị trong đường lối cải tổ, để đẩy
mạnh “diễn biến hoà bình” trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Tổn thất nặng nề
đó của chủ nghĩa xã hội là bài học cảnh giác cách mạng sâu sắc của sự nghiệp
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Càng bộc lộ rõ tính chất
nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hoà bình”- bạo loạn lật đổ mà các thế
lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá đối với cách mạng nước ta.
4. Thủ đoạn và các phương thức hoạt động chủ yếu của chiến lược
“diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng của các thế lực thù
địch chống phá cách mạng Việt Nam.
* Thủ đoạn:
- Để thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam trong thời gian
qua các thế lực thù địch đã sử dụng những thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt.
Cụ thể là:
- Phá rã niềm tin vừa là mục tiêu trước mắt vừa là một thủ đoạn rất nguy
hiểm của các lực lượng thù địch chống phá cách mạng nước ta. Mũi nhọn để
phá rã niềm tin là tập trung đánh phá nền tảng tư tưởng của Đảng: Đánh vào
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc quá khứ hào hùng
của dân tộc ta, bôi nhọ lãnh tụ và các nhà lãnh đạo đương chức của Đảng và
Nhà nước, đánh vào những vấn đề có tính nguyên tắc sống còn của Đảng như
vấn đề lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, tập trung dân chủ trong Đảng,

giáo bất hợp pháp, nếu không được thì gây rối. Một số tổ chức phi chính phủ
các nước ngoài đi các địa phương, đặc biệt là vùng dân tộc ít người để truyền
đạo trái phép, để nắm và lôi kéo lực lượng xấu trong tôn giáo hoạt đông


11

chống chính quyền. Tháng 11- 1998, Quốc hội Mỹ thông qua “Đạo luật tự do
tôn giáo quốc tế” với 7 biện pháp trừng phạt tài chính, kinh tế và 8 biện pháp
trừng phạt về ngoại giao nhằm chống lại các nước xã hội chủ nghĩa và các
nước có xu hướng đòi độc lập, không bị lệ thuộc Mỹ, trong đó Việt Nam là
một trong những trọng điểm.
- Kết hợp tuyên truyền xuyên tạc, bôi xấu, kích động với ra sức xây dựng
lực lượng, tạo dựng ngọn cờ, gây áp lực với ta để thay đổi đường lối, chính
sách nhằm chuyển hoá dần Đảng và chế độ, đồng thời ra sức gây mất ổn định
chính trị trong nước, gây bạo loạn lật đổ và sức ép quân sự từ bên ngoài, là
thủ đoạn chủ yếu và vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch.
* Phương pháp:
- Dùng “chiến tranh tâm lý”, tuyên truyền miệng, “thông tin” trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng internét, viết bài chuyền tay
nhau…để xuyên tạc sự thật, gây nghi ngờ, tạo dư luận, tạo sự hỗn loạn về
chính trị, tư tưởng, lôi kéo quần chúng nhẹ dạ, cả tin, thiếu cảnh giác, tạo ra
“khoảng trống về tư tưởng” để truyền bá các quan điểm, “giá trị” tư sản vào
Việt Nam. Đây là phương pháp chủ yếu mà bọn phản động và các thế lực thù
địch quan tâm chống phá cách mạng Việt Nam ngay từ những ngày đầu cách
mạng, nay lại đang được chúng sử dụng triệt để hơn với các lực lượng và
phương tiện hiện đại.
- Kích động vấn đề “dân chủ”, “ nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”,
được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi là những đòn đột phá
khẩu, các mũi xung kích để chọc thủng trận địa chính trị, tư tưởng.

hợp tác, đầu tư và phát triển kinh tế của ta, khi có thời cơ thì tổ chức gây rối,
bạo loạn, nổi dậy lật đổ, cướp chính quyền.
Tóm lại, hai phương pháp cơ bản mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lược
thù địch thực hiện trong chiến lược “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam gồm:


13

Thứ nhất, thông qua viện trợ, đầu tư, hợp tác về kinh tế, văn hoá, giáo
dục, khoa học, pháp luật… để chuyển hoá tư tưởng đội ngũ cán bộ chủ chốt
của các ngành, các cấp, truyền bá tư tưởng tư sản và lý luận kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, từ chuyển hoá về kinh tế, pháp luật, dần dần chuyển hoá về
chính trị, đưa Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, liên kết lực lượng phản động trong nước với lực lượng phản
động ở nước ngoài, hình thành tổ chức, từ hoạt động bí mật sang bán công khai
và công khai, hợp pháp hoá và quốc tế hoá, gây sức ép, đa nguyên, đa đảng và
bầu cử “công bằng, tự do” để tạo điều kiện giành chính quyền.
Ngoài hai phương pháp chủ yếu nêu trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch vẫn tích cực gây sức ép về ngoại giao, kinh tế, răn đe về quân sự,
và chuẩn bị lực lượng, xây dựng kế hoạch bạo loạn lật đổ cướp chính quyền, và
sẵn sàng can thiệp vũ trang khi cần thiết.
5. Âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực chống phá quân đội ta
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Đối với quân đội ta, kẻ thù đã và đang sử dụng mọi âm mưu và thủ đoạn
thâm độc, trong đó chúng triệt để sử dụng vũ khí tư tưởng, lý luận nhằm thủ
tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quan đội, thực hiên “phi chính trị hoá
quân đội”. Các thế lực thù địch tung ra những luận điệu tuyên truyền, xuyên
tạc cho rằng: “ quân đội và công an nhân dân chỉ là của quốc gia, dân tộc,
không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái chính trị nào:; Cần “phi đảng
hoá”, “xây dựng quân đội trung lập”, xây dựng quân đội nhà nghề”; “đẩy

“chống khủng bố”, tham gia tổ chức quân sự, an ninh chung nào đó, qua đó
để chúng nắm chắc hơn quân đội, tác động tư tưởng đòi xây dựng quân đội
theo hướng “chuyên nghiệp”, “quân đội nhà nghề”, tìm mọi cách móc nối, đe
doạ, mua chuộc cán bộ, nhất là cán bộ cao cấp trong quân đội để cài cắm lực
lượng, tạo thời cơ hành động. Các hành động tình báo quân sự, thu thập thông


15

tin tình báo, bí mật quân sự, bí mật quốc gia của ta…bằng các thủ đoạn như:
mua chuộc, chia rẽ, xuyên tạc, công kích, vừa trắng trợn, vừa công khai, vừa
ngấm ngầm khó thấy. Trong chống phá kẻ thù hết sức coi trọng đội ngũ cán
bộ cao cấp, cán bộ ở các cơ chiến lược, chỉ huy các đơn vị, cơ quan trọng yếu.
Thực chất các luận điệu trên đây của các thế lực thù địch là nhằm một mục
đích duy nhất: “phi chính trị hoá” quân đội ta, làm cho quân đội ta thoát ly sự
lãnh đạo của Đảng, xa rời lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Bóc trần âm mưu, thủ đoạn và bản nhất lừa bịp của một số nhà lý luận tư
sản phủ nhận bản chất giai cấp của quân đội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã công
khai tính giai cấp của quân đội và khẳng định quân đội là công cụ bạo lực của
giai cấp thống trị tổ chức ra nhà nước và quân đội. Sự xuất hiện của nhà nước
và quân đội là có tính lịch sử; đó là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp có lợi ích đối lập nhau không thể điều hoà.
Không thể có quân đội đứng ngoài giai cấp. Quân đội là một tổ chức vũ trang
của giai cấp, một nhà nước, một tổ chức được tổ chức ra nhằm bảo vệ quyền
lợi của giai cấp, nhà nước, tổ chức, tổ chức ra quân đội đó. Theo Lênin: “Hiện
nay cũng như trước kia và sau này quân đội sẽ không bao giờ có thể trung lập
được”1. Các nhà nước và quân đội của giai cấp bóc lột: “Không phải chỉ dưới
chính thể quân chủ, quân đội mới là công cụ đàn áp. Nó vẫn là công cụ đàn áp
trong tất cả các chính thể cộng hoà tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà dân
chủ nhất”2.

khi tổ chức, xây dựng, giáo dục, rèn luyện quân đội đã khẳng định vai trò lãnh
đạo quân đội: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân
dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục” 5.. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là tổ chức chính trị duy
nhất có quyền nắm quân đội, lãnh đạo quân đội. Đảng không chia sẽ quyền đó
cho bất cứ một tổ chức và cá nhân nào khác. Người cũng là người đầu tiên
khái quát thành nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội đến nay vẫn đước thực
hiện trong quân đội và công an nhân dân: “Phải quán triệt sự lãnh đạo toàn
diện, trực tiếp và tuyệt đối của Đảng đối với quân đội”.
T43 tr227
T12. tr68
5
Hcm tt, t11,n..1996, tr349
3
4


17

Từ ngày thành lập đến nay, quân đội ta luôn mang trong mình bản chất
giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Trãi qua
thực tiễn đấu tranh cách mạng hơn 60 năm qua, quân đội ta đã thực sự trở
thành công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung
thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng là quân đội anh hùng của
một dân tộc anh hùng, chiến thắng cả những đội quân xâm lược nhà nghề
hùng mạnh nhất thế giới. Tổng kết thực tiễn xây dựng quân đội của Tổng cục
Chính trị đã chỉ rõ: “Không có Đảng thì không có quân đội, không có Đảng
mạnh thì không có quân đội mạnh”
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được phát huy không ngừng thông
qua một cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội hợp lý. Sự lãnh đạo của Đảng đối với

thể phủ nhận. Những thành tựu của công cuộc đổi mới tiếp tục cổ vũ, cũng cố
niềm tin trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới.
Hai là, nhân dân ta đã trãi qua nhiều thử thách, đặc biệt là trong hai cuộc
chiến tranh đầy hy sinh, gian khổ và đã từng đánh bại nhiều cuộc chiến tranh
tâm lý của địch, cho nên có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Ba là, những sai lầm chính trị trong cải tổ dẫn đến sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu và những hậu quả nặng nề do sự
sụp đổ ấy để lại là bài học thực tiễn và rất thiết thân cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta để đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”.
Bốn là, trãi qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, đặc biệt là những năm đất
nước hoà bình, thống nhất đến nay, chúng ta đã thường xuyên đấu tranh
chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch nên chúng ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trên mặt
trận đấu tranh chính trị, tư tưởng chống âm mưu phá hoại của kẽ thù.
* Những khó khăn, thách thức:


19

Chúng ta đang bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI trong bối cảnh
quốc tế tiếp tục có những diễn biến hết sức phức tạp, cuộc đấu tranh “ai thắng
ai” đang diễn ra quyết liệt hơn. Những khó khăn thách thức phía trước còn
nhiều, chủ yếu trên những mặt sau đây:
Thứ nhất, mặc dù đạt đước những thành tựu to lớn trong phát triển kinh
tế nhưng chúng ta vẫn đang nằm trong những nước kinh tế chậm phát triển,
tác động của những khó khăn về kinh tế-xã hội đang còn nhiều và là một
thách thức đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục vượt qua. Những khó khăn ấy sẽ tác
động lớn đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân,
từ đó dễ phát sinh những tư tưởng hoài nghi, dao động, là điều kiện để cho

lợi trong cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch.
*Mục tiêu chung của cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình”
là: kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kề thừa và phát
huy truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại, bảo vệ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự lãnh đạo
của Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, kiên quyết đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bài trừ các
tư tưởng phản động và văn hoá độc hại.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, trong công tác đấu tranh chống âm mưu
“diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng cần thấy rằng: trong mối
quan hệ giữa nhân tố chủ quan và sự tác động của nhân tố khách quan, nhân
tố bên trong và tác động bên ngoài, thì điều kiện chủ quan, nhân tố bên trong,
cụ thể là sự vững mạnh của cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, các tổ chức
quần chúng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự giác ngộ và tinh thần cảnh giác
cách mạng của mọi quân nhân trong đơn vị là nhân tố quyết định thắng lợi.


21

Trước mỗi sự việc, hiện tượng, cần tỉnh táo phân tích khách quan, khoa
học, đi vào bản chất sự việc, không dừng lại ở hiện tượng, sự việc một cách
giản đơn, phiến diện, không nên quy chụp hoặc “vơ đũa cả nắm”. trong mỗi
sự việc cần phân biệt kẻ chủ mưu, đầu sỏ với những người mơ hồ, a dua; phân
biệt những người tâm huyết muốn thảo luận một cách xây dựng với những
người cố tình chống đối. Phân biệt giữa hợp tác, giao lưu hữu nghị với những
hoạt động phá hoại, âm mưu lật đổ; phân biệt hoạt động đầu tư, kinh doanh
bình thường với các hoạt động kinh tế có ý đồ chính trị, kèm theo các điều
kiện chính trị. Chúng ta tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nhưng
trong quan hệ đối ngoại cần thực hiện tốt phương châm vừa hợp tác, vừa đấu

tốt”, phong trào thi đua huấn luyện, rèn luyện, xây dựng chính quy…và xây
dựng các điển hình tiên tiến, các nhân tố mới, làm cho cái tốt, điều thiện, lấn
át cái xấu, điều ác, làm cho mọi quân nhân thấy rõ bản chất, truyền thống tốt
đẹp của quân đội và đơn vị, tạo ra dư luận xã hội để đấu tranh chống lại các
hiện tượng tiêu cực trong đơn vị, Xây dựng lối sống lành mạnh, tiết kiệm
chống lãng phí, tham nhũng. Các chi bộ và tổ chức cơ sở đảng cần đấu tranh
chống lại các hiện tượng loan tin, đồn nhảm, các luận điệu phản tuyên truyền
của kẻ địch và các phần tử chống đối, bất mãn, lãnh đạo đơn vị bài trừ văn
hoá phẩm độc hại; xử lý nghiêm các tệ nạn xã hội, xây dựng môi trường văn
hoá trong sạch lành mạnh, nếp sống văn minh, đoàn kết trong toàn đơn vị.
Bốn là, tiếp tục quán triệt và thực tốt Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị
nhằm giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội trong thời kỳ mới.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được phát huy không ngừng
thông qua một cơ chế đảng lãnh đạo quân đội hợp lý. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội được quán triệt sâu sắc thông qua mỗi bước hoàn
thiện cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội. Tổng kết kinh nghiệm xây dựng
quân đội trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Tổng cục Chính trị đã chỉ


23

rõ: “Chế độ đảng uỷ lãnh đạo, thủ trưởng phân công phụ trách là hợp lý
nhất, để quán triệt sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong quân đội”. Cơ chế
đó đến nay vẫn khẳng định tính khoa học của nó.
Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công
nhân của quân đội, làm thất bại âm mưu thâm độc của kẽ thù, Đảng ta chủ
trương tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội bằng việc
đề ra Nghị quyết số 51 về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực
hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status