Luận Văn Vai Trò Của Nhà Nước Trong Việc Thực Hiện Dân Chủ Ở Nước Ta Hiện Nay - Pdf 41

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----------------------

Nguyễn Lơng Luyện

Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngời hớng dẫn khoa học: TS HOÀNG HẢI BẰNG

HÀ NỘI - 2006


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắt đầu từ thế kỷ XX, “dân chủ” trở thành khái niệm phổ biến nhất của
nhân loại và “dân chủ” luôn được các nhà lý luận và hoạt động chính trị- xã hội
quan tâm và đề cập. Ngày nay, không có một tổ chức, phong trào chính trị- xã
hội hay một luận thuyết triết học chính trị nào lại không đề cập đến vấn đề dân
chủ mà không sử dụng thuật ngữ này trong mục đích cương lĩnh hành động của

hiện nay của tác giả Đỗ Trung Hiếu (2002).
* Các loại sách, báo, tạp chí:
- Văn hoá pháp lý quá trình dân chủ hoá, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số
4/1991 của tác giả Trần Ngọc Đường.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền, Nxb
Sự thật, 4/1992 của tác giả Đỗ NguyênPhương và Trần Ngọc Đường.
- Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân chủ, Tạp
chí dân chủ và pháp luật số 10/2000 của tác giả Trần Hậu Thành.
- Một số khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin khoa học xã
hội số 3/2002 của tác giả Đỗ Trung Hiếu...
Như vậy, cho đến nay đa phần các nội dung, các khía cạnh của vấn đề nhà
nước và dân chủ đã được bàn tới, song luận văn chỉ nhấn mạnh đến vai trò của
nhà nước trong việc thực hiện và phát huy dân chủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của nhà nước trong việc
thực thi quyền dân chủ trong lịch sử thế giới và Việt Nam. Trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện dân
chủ ở nước ta hiện nay.
- Để đạt được mục đích trên đây, các nhiệm vụ nghiên cứu được xác định là:
Thứ nhất, làm rõ vai trò của nhà nước đối với việc thực thi dân chủ trong
lịch sử thế giới.
Thứ hai, làm rõ vai trò của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong việc thực hiện dân chủ, phân tích thực trạng tình hình thực thi dân chủ, tìm
ra nguyên nhân những mặt làm được và những thiếu sót cần phải khắc phục.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc thực thi dân chủ phù hợp với xu thế
hội nhập quốc tế hiện nay.


6

1.1.1. Khái niệm dân chủ
Tư tưởng về dân chủ đã hình thành từ thời cổ đại, bắt đầu phát triển khi xã
hội có giai cấp và có hiện tượng áp bức bóc lột giữa các giai cấp đồng thời xuất
hiện nhà nước. Tư tưởng dân chủ đã phản ánh khát vọng quyền được sống, được
đối xử bình đẳng của đông đảo quần chúng bị áp bức. Nhưng hầu hết những
cuộc đấu tranh đó đều thất bại, và do thất bại trong hiện thực, quần chúng lao
động mơ tưởng đến một xã hội "hoàng kim" đã qua của họ, đó là xã hội cộng
sản nguyên thủy. Những người nô lệ đã mơ ước trở lại thời kỳ cộng sản nguyên
thủy, vì ở đó, họ được làm chủ cộng đồng, xã hội của mình. Những nhà tư tưởng
ở Hy Lạp thời cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải có quyền
lực mạnh nhất và cao nhất. Từ đó đã xuất hiện khái niệm dân chủ, nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân. Những tư tưởng dân chủ thời cổ đại đã được thể
hiện trong nhà nước dân chủ chủ nô Aten. Tuy nhiên, những tư tưởng dân chủ
thời kỳ này cũng còn nhiều hạn chế.
Sau khi nhà nước dân chủ chủ nô Aten bị tan vỡ, chế độ phong kiến được
xác lập. Mọi thành tựu của nhà nước Aten bị xoá bỏ và thay vào đó là những
giáo lý khắc nghiệt trói buộc cuộc sống con người cũng như kìm hãm sự phát
triển của xã hội. Vì lẽ đó, "chế độ phong kiến là đêm trường Trung cổ" đối với
các nước ở châu Âu.
Từ nửa sau thế kỷ XIV, trong lòng xã hội phong kiến đã xuất hiện những
mầm mống của chủ nghĩa tư bản, cùng với nó là sự hình thành từng bước của
giai cấp tư sản - đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ.
Để chuẩn bị cho cách mạng tư sản, từ nửa sau thế kỷ XIV, đến hết thế kỷ
XVI, ở Tây Âu đã nổi lên một phong trào văn hoá mới, sôi động, rầm rộ và có ý


8
nghĩa to lớn. Đó là phong trào văn hoá Phục hưng. Thực chất, đây là một cuộc
đấu tranh vừa ôn hoà vừa quyết liệt trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng của giai cấp
tư sản nhằm chống lại giai cấp phong kiến và Giáo hội. Phục hưng có nghĩa là

những nội dung, tư tưởng tiến bộ, dân chủ và nhân đạo trong các học thuyết của
những đại diện xuất sắc thuộc trào lưu triết học ánh sáng như: Jăng Miliê, Sác
Luy Môngtexkiơ, Vônte, Giăng Giắc Rútxô.
Các nhà tư tưởng tư sản đã tiếp tục xây dựng, phát triển, hướng tới hoàn
thiện ý niệm về dân chủ trong đó có sự bình đẳng cho mọi người kể cả nông dân
và nô lệ. Đặc biệt, các nhà tư tưởng tư sản thời kỳ này đã xác định vai trò của
quản lý nhân dân trong lịch sử phát triển của một quốc gia. Những thành tựu này
chính là sự kế thừa, phát huy cao độ tư tưởng dân chủ trong thời kỳ văn hoá
Phục hưng.
- Tư tưởng dân chủ của Sác luy Môngtexkiơ:
Xuất thân từ một gia đình quý tộc tư pháp, đã từng làm Chủ tịch nghị hội
(khi đó là cơ quan tư pháp) ở Boócđô nên Môngtexkiơ hiểu biết rất rõ hệ thống cai
trị và thực chất của chế độ chuyên chế từ Trung ương cho đến địa phương.
Trong các tác phẩm "Những lá thư Ba Tư" (1721) "Khảo sát về sự lớn
mạnh và suy tàn của La Mã" (1734), và đặc biệt là cuốn "Tinh thần pháp luật"
(1748), ông đã thể hiện những tư tưởng dân chủ của mình. Nghiên cứu các chế
độ chính trị, ông phân biệt 3 loại tổ chức nhà nước: độc tài, quân chủ lập hiến và
cộng hoà. Môngtexkiơ lên án chế độ độc tài là tàn bạo và cho rằng chế độ cộng
hoà là tốt đẹp, nhưng trong thực tế không thực hiện được. Theo ông, chế độ
chính trị tốt nhất là nhà nước quân chủ lập hiến giống như nước Anh.
Chống lại nền quân chủ chuyên chế tập trung mọi quyền lực vào tay vua,
nguyên tắc tổ chức quyền lực "Tam quyền phân lập" của Môngtexkiơ là hết sức
tiến bộ với lập luận rằng phân quyền và hạn chế quyền hành là những bảo đảm
chủ yếu của tự do. Vì thế quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải triệt để độc
lập, phân lập với nhau nhưng mặt khác cũng phải kiềm chế lẫn nhau. "Lấy
quyền lực hạn chế quyền lực". Tổ chức các cơ quan quyền lực theo nguyên tắc
này đã hạn chế được quyền lực tập trung quá nhiều trong tay một người hoặc
một nhóm người từ đó dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, vi phạm pháp luật.





11
không thể thực hiện được, ông chủ trương điều hoà chế độ tư hữu, chuyển từ chế
độ đại sở hữu sang tiểu tư hữu. Trên cơ sở đó nếu không diệt trừ tận gốc cái xấu
xa của xã hội thì cũng có thể giảm bớt đến mức tối thiểu những sự bất bình
đẳng.
Điểm nổi bật nhất trong quan niệm chính trị của Rút- xô là vấn đề chế độ
nhà nước.Trong khi Môngtexkiơ tin tưởng vào nhà nước quân chủ lập hiến,
Vônte và Đi-đơ-rô trông chờ vào một vị "minh quân" thì Rut-xô chủ trương thiết
lập một nhà nước cộng hoà, trong đó bảo đảm hoàn toàn chủ quyền của nhân
dân, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng và tư hữu tài sản. Đó là một chính quyền
cộng hoà cấp tiến nhất, triệt để nhất và cũng lý tưởng nhất.
Trong "Khế ước xã hội" ông đã trình bày chi tiết về một chính quyền
nhân dân. Khái niệm nhân dân mà ông đề cập đến là những người lao động
sản xuất nhỏ, là nông dân, là tiểu chủ, thợ thủ công... những người trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, họ chiếm đa số trong xã hội. Như
vậy, nền dân chủ của Rut-xô là nền dân chủ của đa số, là dân chủ thực sự
của nhân dân. Mặc dù còn những điểm hạn chế, nhưng với những tư tưởng
tiến bộ nêu trên, Rut-xô vẫn được coi là nhà cách mạng dân chủ xuất sắc
nhất.
Những tư tưởng dân chủ trong bản "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ và bản
"Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp là sự tiếp nối các tư tưởng của
các nhà khai sáng.
- Tư tưởng dân chủ của C.Mác:
Với sự phát hiện ra quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu có phê phán thành
tựu lý luận của những người đi trước, khái quát lịch sử phát triển của dân chủ,
C.Mác đã trình bày một cách khoa học về dân chủ.
Lý luận dân chủ gắn liền với học thuyết nhà nước của C.Mác và chủ nghĩa
Mác nói chung. Sự hình thành và phát triển lý luận dân chủ không tách rời sự hình

giai cấp và đấu tranh giai cấp trong cuộc đấu tranh để cải tạo xã hội. Đặc biệt là
C.Mác đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.


13
Từ hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận, C.Mác ngày càng ý thức rõ
hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và toàn bộ chế độ tư bản. C.Mác đã nhận
thức rằng, giành lấy dân chủ là một mục tiêu, một nội dung của giai đoạn thứ
nhất của cuộc cách mạng vô sản. Việc giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống
trị cũng có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy dân chủ. Xây dựng nhà nước của
giai cấp vô sản, của nhân dân lao động cũng có nghĩa là xây dựng nền dân chủ
của giai cấp vô sản, nền dân chủ của nhân dân lao động.
V.Lênin- lãnh tụ của cuộc cách mạng XHCN đầu tiên, đã đặc biệt nhấn
mạnh tính giai cấp của nhà nước, của dân chủ, khi mà cuộc đấu tranh giai cấp
đang diễn ra quyết liệt và vấn đề giành chính quyền được đặt ra một cách trực
tiếp. Khi phân tích sâu sắc những hạn chế của dân chủ tư sản, tính tất yếu khách
quan của việc dùng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước tư sản giành lấy chính
quyền, giành lấy dân chủ, V.Lênin cũng nhấn mạnh tính lịch sử của dân chủ và
phân tích sâu sắc thêm tư tưởng của chủ nghĩa Mác về sự tiêu vong của nhà
nước và chế độ dân chủ. V.Lênin khẳng định rằng, không có dân chủ trừu tượng
mà bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể, dân chủ với giai cấp này, không
dân chủ với giai cấp kia. V.Lênin viết:
Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của
nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có
tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta. Một mặt thì như thế. Nhưng
mặt khác, chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình đẳng
giữa những người công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau
trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước [20, tr.123].

Còn "Polyarche" là chế độ, trong đó việc quản lý, cai trị là do thiểu số
điều hành được đa số kiểm soát.
Tức là công thức: " Nhân dân lãnh đạo nhân dân " được thay thế bằng
công thức: " Giới thượng lưu tách ra từ nhân dân lãnh đạo nhân dân”.
Hai là, dân chủ theo đúng nghĩa không ở đâu, không bao giờ được thực
hiện một cách trọn vẹn và quyền lực không bao giờ có được sự phân chia cân


15
bằng. Không phải lúc nào nhân dân cũng được tham gia vào công việc quản lý
và không phải khi nào mọi yêu cầu của nhân dân cũng đều được đáp ứng đầy đủ.
Dân chủ là hình thức cai trị (cầm quyền) cho phép các nhóm xã hội được
tự do thể hiện lợi ích của mình và tìm thấy những quyết định trong cuộc đấu
tranh có nhượng bộ một cách cân bằng.
Ngoài những ý kiến trên đây, trong ngôn ngữ hiện đại, dân chủ có thể
được hiểu là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước của một giai cấp.
- Là nguyên tắc tổ chức, quản lý xã hội.
- Là tính chất của các mối quan hệ giữa các cộng đồng người.
- Là giá trị xã hội, một lý tưởng giải phóng con người hướng tới tự do và
thực hiện quyền làm chủ xã hội, làm chủ nhà nước và làm chủ bản thân.
- Dân chủ là sản phẩm của nền văn minh.
- Là điều kiện và tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Xét theo góc cạnh chính trị, dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính
trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực và
mọi công dân, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định.
Dân chủ trước hết và chủ yếu được xem xét dưới góc cạnh chính trị và
pháp luật nhưng dần dần nó mang thêm ý nghĩa xã hội vì nó liên quan đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống.
Dân chủ là một quá trình vận động không ngừng với những thay đổi quan

Cho đến nay, dân chủ được tiếp nhận từ nhiều góc độ khác, nhưng nội
dung cơ bản của dân chủ vẫn giữ nguyên từ gốc và có phát triển theo tiến trình
phát triển của nhân loại từ thời cổ đại đến nay.
Tựu trung lại, dân chủ được hiểu theo những khía cạnh như sau:
Một là, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền quyết
định những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình.
Hai là, dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước, một chế độ chính trị
xã hội mà ở đó thừa nhận những mặt pháp lý những quyền cơ bản của con người
(quyền tự do, quyền bình đẳng). Đồng thời những quyền này được thể chế hoá


17
bằng pháp luật để quy định rõ mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, nhà
nước với công dân cũng như bản thân công dân với công dân.
Nền dân chủ trong xã hội có giai cấp đối kháng chứa đựng trong đó hai mặt
đối lập nhưng thống nhất với nhau đó là tính nhân loại và tính giai cấp.
Tính nhân loại của dân chủ chủ yếu là bảo đảm các quyền của con người
như quyền tự do, bình đẳng và các lợi ích cơ bản của con người phù hợp với sự
tiến bộ của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Tính giai cấp của dân chủ là yếu tố phản ánh quyền lực và lợi ích của giâi
cấp thống trị, được thực hiện thông qua thể chế nhà nước mà giai cấp thống trị
đại diện.
Tuy nhiên, khi giai cấp thống trị còn là giai cấp tiến bộ, nhu cầu và lợi ích
của nó phần nào phù hợp với nhu cầu và lợi ích của nhân dân thì nó sẽ chủ động
ban hành một số những chính sách dân chủ nhất định đáp ứng đúng đòi hỏi của
nhân dân. Khi đó có được sự thống nhất giữa tính giai cấp với những giá trị
chung của nhân loại. Khi giai cấp thống trị đã trở nên lạc hậu với thời cuộc và có
nguy cơ mất quyền lực thì sẽ tìm cách thắt chặt sự kiểm soát quyền lực,hạn chế
và thậm chí thủ tiêu những giá trị dân chủ.
Khi tiếp cận dân chủ từ góc độ là một hình thức nhà nước cũng không nên

đồng thời là động lực to lớn thúc đẩy con người hành động, con người được
sống tự do mà dân chủ mang lại sẽ phát huy hết tài năng sáng tạo của mình.
Một khi nhân dân là chủ, làm chủ mọi quyền lực thì xã hội sẽ khơi dậy được
sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Sự phát triển tự do
của mỗi cá nhân thực sự sẽ phát huy được khả năng chủ động và sáng tạo của
cá nhân đó và nếu như tất cả các thành viên trong cộng đồng xã hội đều được
phát triển tự do, không bị ràng buộc, không bị cấm đoán một cách vô lý,
không bị làm thui chột khả năng thì sẽ làm cho cả xã hội phát triển.
Dân chủ vốn vừa là mục tiêu, vừa là động lực to lớn của sự phát triển xã
hội, đặc biệt là trong xã hội XHCN, trong đó lần đầu tiên trong lịch sử, quần
chúng lao động đông đảo được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột trở thành
người làm chủ vận mệnh của mình. Lênin viết: "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm
ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy


19
trong thực tiễn v.v.. đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu
tranh vì cách mạng xã hội" [20, tr.97]. Do dân chủ có vị trí quan trọng như vậy,
nên nhiệm vụ của nhà nước ta là phải tạo mọi điều kiện để đưa dân chủ vào cuộc
sống.
1.1.2. Những tiền đề của dân chủ
Như vậy, về vấn đề dân chủ có nhiều ý kiến đánh giá và nhìn nhận khác
nhau nhưng có một điều, lịch sử dạy chúng ta rằng, dân chủ chỉ mang lại lợi ích
khi nó phù hợp với nền văn hoá chính trị và tâm tính của dân tộc, khi nó có
những tiền đề về kinh tế và xã hội tương ứng. trong trường hợp ngược lại, nó có
thể sinh ra một thứ quyền lực số đông, dẫn đến tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ
và hậu quả cuối cùng là có thể dẫn đến chế độ độc tài chuyên chế.
Nếu như chỉ nói đến dân chủ một cách chung chung thì đó chưa phải đã là
hình thức quản lý xã hội tốt nhất và chưa hẳn đã là chìa khoá vặn năng cho tất cả
các dân tộc và cho mọi thời đại. Một nền dân chủ tồi, không hiệu quả thậm chí

thông qua mạng lưới sách báo, truyền hình, internet. Sự phát triển của phương
tiện thông tin giúp cho dân chúng nhanh chóng có thông tin để có thể tham gia
bàn luận, đánh giá và lựa chọn những quyết định chính trị đúng đắn. Trong một
quốc gia rộng lớn về lãnh thổ, với dân số đông thì sự yếu kém và lạc hậu về
thông tin đại chúng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển dân chủ. Và một điều
vô cùng quan trọng nếu nói đến dân chủ mà không có một nền kinh tế thị trường
cạnh tranh. Lịch sử thế giới chưa biết đến một ví dụ tồn tại dân chủ trong các
quốc gia không có nền kinh tế thị trường và sở hữu tư nhân. Nền kinh tế thị
trường ngăn ngừa việc tập trung quyền lực kinh tế và đi liền với nó là quyền lực
chính trị vào tay một nhóm nhỏ xã hội hoặc vào bộ máy quyền lực nhà nước.
Kinh tế thị trường kích thích sự phát triển các tính chất cần thiết cho một nền
dân chủ: tự do, trách nhiệm và sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội. Kinh tế
càng phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ tầng của xã hội ngày càng phát
triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền công dân và quyền con
người, quyền học tập, nghỉ ngơi, quyền có việc làm, quyền được chăm sóc sức
khoẻ, quyền học tập và được bảo vệ của trẻ em, quyền được sống trong môi


21
trường lành mạnh và an toàn cũng như những nội dung khác đều đòi hỏi sự đầu
tư lớn của nhà nước và xã hội. Sự phát triển kinh tế bảo đảm cho triển vọng của
nền dân chủ, sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra được một tầng lớp trung lưu và sẽ tạo
điều kiện cho dân chúng có học thức cao hơn trước và đó là môi trường mới
thuận lợi cho dân chủ hoá.
Mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế là rất phức tạp, chặt chẽ,
làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Kinh tế tạo điều kiện để xây dựng dân chủ,
nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Cũng cần thấy rằng dân
chủ đã tạo điều kiện phân phối công bằng hơn phúc lợi xã hội, nhờ vậy kích
thích sự phát triển kinh tế.
Mối quan hệ nhân quả ở đây là tương đối và có thể chuyển đổi cho nhau.

tư cách là công dân có tri thức văn hoá mới thực sự có điều kiện thực hiện dân
chủ. Người không có học vấn thường đứng ngoài chính trị và dễ trở thành đối
tượng cho các mánh khoé, thủ đoạn của những lực lượng chính trị cơ hội. Dân
chủ không thể tồn tại với sự cam chịu, phục tùng một cách thụ động các quy
định của chính quyền và chế độ đẳng cấp. Điều này đã được Hồ Chí Minh xác định
rõ :"Trình độ văn hoá của nhân dân ta nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công
cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân
cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" [29, tr.281].
Mặt khác, dân chủ không chỉ phụ thuộc vào trình độ dân trí, văn hoá của
người dân mà nó còn phụ thuộc vào văn hoá chính trị của chủ thể cầm quyền,
Những nhà lãnh đạo chính trị có tài, có đức thường suy nghĩ và đưa ra những
quyết sách phù hợp với lợi ích và nhu cầu của nhân dân.
Tuy nhiên. thực hiện dân chủ không phải chỉ mong đợi vào "lòng tốt" của
người cầm quyền, mà quan trọng hơn là xây dựng những định chế dân chủ buộc
những người nắm giữ quyền lực dù muốn hay không muốn cũng phải tuân theo.
Những người cầm quyền được lựa chọn có thể là những người có tài và đức, suy
nghĩ và hành động của họ vì lợi ích của nhân dân, nhưng nếu không có thiết chế
để nhân dân kiểm soát thì họ có thể dần trở thành người lạm dụng quyền lực, sử
dụng quyền lực đó để mưu cầu lợi ích cho riêng mình.


23
Thứ ba, tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh đến văn hoá chính trị cũng như
hành vi ứng xử của công dân trong đời sống chính trị - xã hội.
Với tính chất là cơ sở hình thành nên tâm tính và ý thức cũng như thế giới
quan chính trị, tôn giáo có thể ngăn chặn hoặc thúc đẩy quá trình dân chủ hoá
đời sống xã hội. Trong số các tôn giáo thì Đạo Tin lành có tác động tích cực hơn
cả đến quá trình dân chủ hoá, thiết lập những giá trị tốt đẹp cho xã hội như giáo
dục tự do và trách nhiệm cá nhân, sự bình đẳng, yêu lao động và phủ nhận các

khổ, giới hạn và kiểm soát của những người cùng dân tộc với nhau vẫn sẽ có ý
nghĩa hơn so với tự do dưới sự bảo hộ của dân tộc khác!
Nói một cách tổng quan, làm bạn với các quốc gia dân chủ có uy tín là
cách thức hợp lý cho quá trình dân chủ hoá đối với các nước đang phát triển chế
độ dân chủ. Tuy nhiên không phải sự giúp đỡ nào cũng vô tư, mà đa phần ẩn sau
sự ủng hộ đó là những mưu tính vụ lợi. Vấn đề đặt ra trong quan hệ đối ngoại đa
phương, các quốc gia phải bình đẳng hợp tác, học hỏi và trao đổi trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau. Dân chủ nghĩa là không áp đặt và do quyền tự quyết của mỗi
quốc gia, từng dân tộc.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Dân chủ với tính cách là một giá trị xã hội luôn thể hiện khát vọng của
nhân loại về cuộc sống tự do, bình đẳng cho tất cả mọi người. Nhưng những giá
trị dân chủ ấy chỉ có thể được thực hiện từng bước thông qua những thể chế dân
chủ khác nhau - những hình thức nhà nước dân chủ khác nhau như lịch sử nhân
loại đã từng trải qua. Dân chủ, cũng như nhà nước, cũng như chính trị, luôn
mang tính giai cấp. Do vậy, dân chủ chủ nô là dân chủ của giai cấp chủ nô; dân
chủ tư sản là dân chủ của giai cấp tư sản. Dân chủ vô sản là dân chủ của giai cấp
vô sản, dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ vô sản là sự phát triển tất yếu
của xã hội, của kinh tế, của chính trị và của bản thân dân chủ.
1.2.1. Nhà nước với việc thực hiện dân chủ trong lịch sử
- Nhà nước dân chủ chủ nô Aten:
Nhà nước Aten (thế kỷ thứ V - IV TCN) đã thiết lập chính thể cộng hoà
dân chủ. Quyền lực tối cao của nhà nước được trao cho đại hội nhân dân là cơ


25
quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đại hội nhân dân được thành lập từ tất cả các
công dân đàn ông từ 20 tuổi trở lên. Đại hội nhân dân thường họp từ 2 đến 3 lần
trong tháng. Đại hội có quyền bầu ra những cơ quan nhà nước khác và những
chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Đại hội nhân dân là cơ quan ban


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status