Đánh Giá Công Tác Quản Lý Chất Thải Rắn Sinh Hoạt Và Đề Xuất Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Trên Địa Bàn Xã Ngọc Xá, Huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh - Pdf 42

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
--------&--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NGỌC XÁ, HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

Người thực hiện

: NGUYỄN THỊ MINH

Lớp

: MTB

Khóa

: K57

Chuyên ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn

:ThS. HỒ THỊ THÚY HẰNG



HÀ NỘI- 2016

ii


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian qua, với sự nỗ lực của bản thân cùng với sự giúp đỡ
của thầy cô và cơ quan thực tập tốt nghiệp em đã hoàn thành khóa luận với đề
tài: “Đánh giá công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn xã Ngọc
Xá, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả”.
Để hoàn thành tốt đề tài này, đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
nhất đến Th.S Hồ Thị Thúy Hằng, người đã tận tình hướng dẫn, định
hướng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em được đi khảo sát thực tế, có cơ
hội tiếp cận sát với nội dung nghiên cứu, giúp em thực hiện tốt những mục
tiêu của đề tài.
Em xin chân thành cám ơn các anh chị ở phòng tài nguyên môi
trường huyện Quế Võ đã tạo điều kiện cho em thu thập tài liệu và các
thông tin liên quan tới đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô khoa Môi Trường
đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quý báu, dạy dỗ em trong suốt quá
trình học tập để trang bị những kiến thức cơ bản áp dụng vào trong quá
trình thực hiện đề tài.
Do thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế nên khóa luận sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp tích cực của quý thầy
cô. Xin chân thành cảm ơn.
Em xin gửi tới quý thầy cô và quý cơ quan lời chúc tốt đẹp nhất!
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Minh


Bảo vệ môi trường

VSMT

Vệ sinh môi trường

URENCO

Công ty môi trường đô thị

UBND

Ủy ban nhân dân

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam................................11
Bảng 2.2: Chất thải rắn đô thị phát sinh năm 2009- 2025.................................................12
Bảng 2.3: Lượng CTRSH phát sinh tại các đô thị Việt Nam năm 2007.............................13
Bảng 2.4: Bảng phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn..............................................15
Bảng 3.1: Dự báo lượng chất thải rắn sinh hoạt...............................................................30
phát sinh và thu gom tới năm 2025..................................................................................30
Bảng 4.1: Dân số hiện tại của xã Ngọc Xá năm 2015.......................................................34
Bảng 4.2: Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tại xã Ngọc Xá...................................36
Bảng 4.3: Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh ở từng thôn.................................37
Bảng 4.4: Phần trăm mục đích phân loại trên 86 hộ có phân loại.....................................39
Bảng 4.5: Bảng tính lợi ích thu được từ việc bán một số loại rác thải...............................40

Hình 4.11: Điểm trung chuyển rác tại thôn Cựu Tự trước ngày thu gom..........................52
Hình 4.12: Sơ đồ phân loại CTRSH tại nguồn..................................................................61

vii


Phần 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây rác thải sinh hoạt đang là vấn đề nan giải
trong xã hội khi mà công tác quản lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ nhân
lực, công nghệ không phát triển tương ứng so với tốc độ gia tăng của rác thải.
Những hệ quả từ sự quá tải tại các bãi chôn lấp, ô nhiễm tại các điểm thu
gom, tập kết, các bãi đổ thải không hợp vệ sinh đã làm gia tăng ô nhiễm
không khí, ô nhiễm nguồn nước và gia tăng các mầm bệnh. Đặc biệt, tại các
khu đô thị, khu đông dân cư bài toán quản lý và xử lý lượng rác thải khổng
lồ phát sinh hàng ngày vẫn đang tìm lời giải. Theo số liệu Cục thống kê
trong Báo cáo hiện trang môi trường quốc gia năm 2011 cho thấy, hiện nay
trên cả nước, tại các khu đô thị hàng ngày có khoảng 27 triệu tấn chất thải
rắn phát sinh, trong đó có hơn 60% là chất thải rắn sinh hoạt. Tuy nhiên,
hiệu quả thu gom mới đạt từ 60 – 80% tùy thuộc vào mức độ phát triển của
mỗi đô thị. Tại các khu vực nông thôn, tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều.
Ngọc Xá là một trong các xã có nền kinh tế khá phát triển của huyện
Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm gần đây, gia tăng trong tiêu
dùng cùng với xu hướng chuyển dịch hoạt động kinh tế sang mô hình sản
xuất công nghiệp dẫn tới sự tập trung đông dân cư lao động là những
nguyên nhân làm lượng chất thải rắn của địa bàn tăng lên nhanh chóng và
thành phần ngày càng phức tạp hơn. Mặc dù hoạt động thu gom, xử lý rác
thải đã được tiến hành từ năm 2013 tuy nhiên trong quá trình thực thi vẫn
còn nhiều bất cập như tình trạng rơi vãi trong thu gom, ứ đọng tại các điểm
tập kết hay phàn nàn của người dân về các điểm tập kết rác không đúng

giới như Nhật Bản, Singapo, Mỹ... thì vấn đề quản lý chất thải rắn được thực
hiện khá tốt ngay từ khâu phát sinh, phân loại chất thải đến thu gom, xử lý. Tại
Việt Nam công tác quản lý CTRSH hiện nay mới dừng lại ở việc thu gom, đổ
thải hoặc và xử lý một phần. Trong đó, công tác phân loại tại nguồn cũng như
phân loại trước khi xử lý; công tác thu gom trung chuyển và các điểm tập kết
vẫn còn nhiều bất cập.
Sơ đồ tổng thể của hệ thống quản lý chất thải rắn ở một số nước cũng
như tại Việt Nam được trình bày ở hình 2.1. Trong sơ đồ này, nguồn phát sinh
chất thải chính là các hoạt động của con người trong đó có làm phát sinh chất
thải rắn, các hoạt động này rất đa dạng bao gồm từ các khu dân cư, khu hành
chính, khu sản xuất, chợ và các khu thương mại lớn,...

3


Nguồn phát sinh
chất thải

Phân loại, tách và
lưu giữ tại nguồn

Thu gom

Tách, xử lý và tái
chế

Trung chuyển và
vận chuyển

Tiêu hủy

cần thực hiện đánh giá hiện trạng thực thi trong mỗi hợp phần (hình 2.1), từ
đó đề xuất giải pháp tương ứng cho từng khâu phù hợp với điều kiện thực
hiện thực tế của địa phương. Ngoài ra, nhận thức của người dân, hệ thống
văn bản pháp luật quy định, các hương ước làng xã, tôn giáo ở từng vùng và
sự quan tâm của chính quyền địa phương nơi đó cũng ảnh hưởng rất nhiều
đến vấn đề phát sinh và công tác quản lý chất thải rắn; chính vì vậy khi
nghiên cứu cải thiện hệ thống quản lý chất thải rắn cũng cần xem xét đến
những yếu tố này.
Khi xem xét từng hợp phần trong hệ thống QLCTR nhận thấy việc
giảm phát thải tại nguồn giúp giảm áp lực lên môi trường sống, giảm chi phí
xử lý và các chi phí trung gian. Với mức độ phát thải như hiện nay, phân loại
chất thải rắn tại nguồn là việc làm hết sức quan trọng. Theo trung tâm nghiên
cứu ứng dụng công nghệ và quản lý môi trường- centema, phân loại chất thải
rắn tại nguồn là quá trình tách các thành phần chất thải khác nhau trước khi
thu gom, vận chuyển, xử lý. Một lượng chất thải sau quá trình chọn lọc và

5


tách các thành phần có thể tái sử dụng, tái chế như nhựa, kim loại, giấy bìa,
cao su, thủy tinh,...; các thành phần dễ phân hủy như rau quả, đồ ăn thừa,…và
các loại chất thải còn lại sẽ được để vào một thùng riêng. Quá trình này giúp
giảm thời gian và chi phí cho các quá trình tiếp theo, đồng thời làm giảm áp
lực lên môi trường. Để thực hiện tốt bước phân loại tại nguồn cần có quy
định và hướng dẫn cụ thể để người dân có thể thực hiện theo; đồng thời nên
chú trọng tới việc công tác giáo dục ý thức cộng đồng về BVMT. Hiện nay,
tại Việt Nam đã có quy định về phân loại CTRSH tại nguồn, tuy nhiên việc
áp dụng mới được thực hiện tại một số địa phương, việc phân loại CTRSH
cũng chưa có tính bắt buộc đối với người dân. Trong khi đó, ở một số nước
phát triển trên thế giới việc phân loại CTRSH tại nguồn được thực hiện rất

loại bỏ, tiêu hủy các thành phần có hại hoặc không có ích trong chất thải rắn;
thu hồi, tái chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích trong chất thải rắn. Hiện
nay, nước ta chủ yếu xử lý CTRSH bằng một số cách như chôn lấp, đốt, ủ
phân compost. Tuy nhiên thực tế việc áp dụng các phương pháp xử lý này vẫn
còn nhiều nhược điểm. Ở nhiều địa phương trên cả nước sử dụng phương
pháp chôn lấp CTRSH, tuy nhiên các địa phương có bãi chôn lấp hợp vệ sinh
thì rất ít, đa số các BCL đều gây ô nhiễm môi trường. Phương pháp chôn lấp
hiện nay còn rất hạn chế, do tốn nhiều diện tích, đồng thời chất thải sinh ra
trong quá trình phân hủy nếu không được thu lại để xử lý sẽ gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Một số địa phương sử dụng phương pháp xử lý rác tiên
tiến hơn đó là công nghệ đốt rác, công nghệ này có những ưu điểm hơn
phương pháp đốt, tuy nhiên chi phí đầu tư hệ thống đốt khá lớn, cần đầu tư
các hệ thống xử lý khí sau đốt để hạn chế ô nhiễm môi trường. Phương pháp
thứ 3 là phương pháp ủ phân compost, Việt Nam là một nước có tỷ lệ chất
hữu cơ rất cao( hơn 50%) trong chất thải rắn đô thị, đây là nguồn nguyên liệu
dồi dào phục vụ cho việc tái chế rác thải hữu cơ thành sản phẩm hữu ích, điều
này không những giảm được áp lực lên môi trường mà còn giảm được chi phí
phân bón cho đồng ruộng từ loại sản phẩm tái chế này.

7


Ở nước ta, đã ban hành các văn bản liên quan tới công tác QLCTRSH
như NĐ59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn hay NĐ38/2015/NĐ-CP về
quản lý chất thải và phế liệu. Các văn bản này quy định khá chặt chẽ công tác
QLCTRSH từ khâu phân loại, thu gom, vận chuyển, trung chuyển, xử lý và
nghị định đã nêu rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân phát sinh CTRSH và
trách nhiệm của chủ thu gom, vận chuyển CTRSH. Tuy nhiên, việc áp dụng
các văn bản luật về QLCTRSH vào thực tế hiện nay còn rất hạn chế, chưa có
các chính sách bắt buộc nào liên quan tới công tác phân loại, thu gom, xử lý

thải rắn, đây là một yếu tố rất quan trọng để quản lý chất thải rắn hiệu quả, đó
là cơ sở để các hộ gia đình, cơ quan, trường học,... thực hiện theo nhằm đảm
bảo tiêu chuẩn môi trường về thải bỏ chất thải rắn. Một số nước phát triển
trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Singapo,... đã ban hành các văn bản liên quan
tới quản lý chất thải rắn khá chặt chẽ và nghiêm ngặt ở tất cả các khâu trong
quy trình quản lý từ phát sinh, thu gom tới khâu xử lý. Ở nước ta, nhà nước đã
có các văn bản về quản lý chất thải rắn, tuy nhiên, các văn bản này còn chưa
chặt chẽ, các văn bản chủ yếu là trên giấy tờ, tính áp dụng thực tế còn chưa
cao. Quản lý chất thải rắn là vấn đề then chốt trong việc bảo vệ môi trường
sống của con người. Vì vậy, cần có kế hoạch tổng thể trong việc quản lý chất
thải rắn tổng hợp thì mới có thể xử lý kịp thời và hiệu quả.
Quản lý tổng hợp chất thải là một cách tiếp cận mới trong quản lý chất
thải và đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Quyết định số 2149/QĐTTg năm 2009 đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất
thải rắn đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050. Trong thực tế, quản lý chất
thải ở các nước trên thế giới có các hướng tiếp cận được áp dụng như sau:
Khuyến khích

Không khuyến khích
Hình 2.3: Nguyên tắc cơ bản trong quản lý và xử lý chất thải

9


Quản lý tổng hợp chất thải xem xét một cách tổng thể các khía cạnh
cần thiết nhất liên quan tới quản lý chất thải là môi trường, xã hội, kinh tế, thể
chế với sự tham gia của các bên liên quan vào các thành phần của hệ thống
quản lý chất thải (phòng ngừa, thu gom, tái sử dụng, tái chế, chôn lấp). Phối
kết hợp các chiến lược quản lý CT bao gồm các giải pháp mang tính chiến
lược giảm thiểu nguồn thải, tái sử dụng, tái chế, làm phân hữu cơ, thu gom,
thu hồi năng lượng và chôn lấp. Quản lý tổng hợp chất thải được tiếp cận ở tất


Hoạt động
quản lý

Hoạt động
giao tiếp
đối ngoại

CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT
Hình 2.4: Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt
Hầu hết tất cả các hoạt động sống đều phát sinh CTRSH, với mỗi nguồn
thì có lượng và thành phần CTRSH đặc trưng khác nhau.
Bảng 2.1: Các nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam
Nguồn

Hộ gia
đình

Các vị trí phát sinh chất thải

Căn hộ riêng, chung cư, khu
nhà thấp tầng và cao tầng

Cửa hàng, nhà hàng, chợ, văn

thương

phòng, khách sạn, cửa hiệu in,

Cơ quan

(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ và cộng sự, năm 2001)
Mỗi nguồn phát sinh CTRSH đều có những đặc trưng riêng và cụ thể
cho từng hoạt động. Trong đó, nguồn phát sinh từ hộ gia đình chiếm số lượng

11


lớn nhất và thành phần chất thải rất đa dạng nhất. Theo kết quả khảo sát của
Tổng cục Môi trường năm 2009, tổng lượng chất thải rắn thông thường phát
sinh trong cả nước khoảng 28 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH chiếm khoảng
19 triệu tấn/năm. Trong những năm gần đây, chất lượng cuộc sống người dân
tốt hơn kéo theo nhu cầu tiêu dùng gia tăng lượng theo đó lượng CTRSH ra
tăng nhiều hơn. Với lượng CTRSH thải ra môi trường như hiện nay, nếu
không có kế hoạch quản lý chất thải rắn cụ thể sẽ gây ô nhiễm môi trường
sống, nhiều bệnh tật phát sinh ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của người dân.
Lượng CTRSH có sự khác nhau giữa các vùng miền, nó phụ thuộc vào dân số
và điều kiện sống ở từng địa phương.
Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2011, chỉ số phát sinh CTR đô
thị bình quân đầu người tăng theo mức sống. Năm 2007, chỉ số CTRSH bình
quân trên đầu người tại các đô thị là 0,75 kg/người/ngày( bảng 2.2). Đến năm
2010, lượng CTR tăng lên 1 kg/người/ngày, ước tính lượng CTR đô thị năm
2015 tăng gấp 1,6 lần, năm 2020 tăng gấp 2,37 lần, năm 2025 tăng gấp 3,2 lần
so với năm 2010. Lượng CTR gia tăng như vậy sẽ tạo áp lực lớn đối với công
tác quản lý CTRSH trong thời gian tới.
Bảng 2.2: Chất thải rắn đô thị phát sinh năm 2009- 2025
Năm
Dân số đô thị
(triệu người)
% dân số đô thị
so với cả nước


44

52

28,20

28,99

29,74

30,2

38

45

50

0,75

0,85

0,95

1,0

1,2

1,4

Lượng chất thải rắn đô thị

Loại đô thị

quân đầu người

phát sinh
Tấn/ ngày

Tấn/năm

1

Đặc biệt

(kg/người/ngày)
0,96

8.000

2.920.000

2

Loại 1

0,84

1.885


228.490

17.682

6.453.930

STT

Tổng cộng

(Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các sở TN và MT)
CTRSH có xu hướng ngày càng tăng và chủ yếu phát sinh nhiều ở các
vùng kinh tế trọng điểm như vùng Đông Nam Bộ có lượng chất thải rắn phát
sinh nhiều nhất, đứng thứ hai là vùng đồng bằng sông Hồng, hay các khu du
lịch như Hạ Long, Hội An, Ninh Bình,… Tại các khu đô thị có xu hướng mở
rộng, phát triển cả về quy mô dân số lẫn khu công nghiệp thì cũng có tỷ lệ
chất thải rắn gia tăng cao như ở Phú Thọ(19,9%), Phủ Lý( 17,3%), Hưng
Yên( 12,3%),...
Đời sống phát triển, mức độ tiêu dùng tăng cao, hàng hóa đa dạng nên
thành phần chất thải cũng thay đổi nhiều so với khi thời kỳ xã hội chưa phát
triển. Thành phần CTRSH ngày càng phức tạp, ngoài các chất thải thông
thường thì có chứa một lượng thành phần chất thải nguy hại. Các loại chất
thải này vẫn được đổ chung với nhau, gây khó khăn cho quá trình xử lý, nếu
không được xử lý đúng cách sẽ phát sinh các chất thải độc hại gây ô nhiễm
môi trường đáng kể. Bên cạnh đó, các loại bao bì như giấy, nhựa, chai lọ thủy
tinh sẽ không ngừng gia tăng. Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2011,

13





CTRSH được trải qua quá trình phân loại ngay tại các hộ gia đình hay
gọi là phân loại chất thải rắn tại nguồn. Ở các nước phát triển trên thế giới,
người dân được hướng dẫn rất kĩ về cách xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại
nguồn. Ngay từ khâu phân loại chất thải rắn đã được thực hiện rất nghiêm
ngặt và rất được người dân hưởng ứng. Tại Nhật Bản, khâu phân loại tại
nguồn được người dân thực hiện rất nghiêm túc. Một chiếc chai nhựa ở nước
Nhật có thể phân chia ra thành bốn phần là nắp chai, nhãn chai, vỏ chai và
chai còn nước sẽ được để vào một thùng riêng. So với Nhật Bản thì vấn đề
phân loại chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta còn khá sơ sài và chưa hiệu quả, sự
hợp tác của người dân còn kém nên hiệu quả phân loại còn rất thấp. Từ khi xã
hội chưa phát triển, trong hệ thống quản lý chất thải rắn sinh hoạt không có
khâu phân loại, tuy nhiên, trong thói quen của các gia đình đã tự hình thành quá
trình phân loại này. Những chất thải còn có thể sử dụng được người vẫn giữ lại
để tận dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Ngày nay, ở một số hộ gia đình
cũng đã có phân loại chất thải rắn sinh hoạt, tuy nhiên, việc phân loại còn khá
đơn giản, chủ yếu người dân tách giấy bìa, chai nhựa, kim loại, những thứ có
thể bán được, họ giữ lại để bán đồng nát còn những thứ không sử dụng được thì
họ đổ chung ra ngoài môi trường, việc phân loại này chủ yếu thực hiện ở
những hộ nghèo hay những hộ có thu nhập trung bình, còn phân loại xuất phát
từ ý thức và nhận thức của người dân còn rất thấp.
Với lượng CTRSH phát sinh ngày càng lớn và thành phần phức tạp như
hiện nay thì khâu phân loại CTR tại nguồn sẽ giúp giảm áp lực lên môi trường
sống, giảm thời gian, chi phí đối với các quá trình thu gom, vận chuyển, xử
lý. Dựa vào mục đích xử lý nhiều địa phương đã có những quy định rất chi
tiết về cách phân loại CTRSH:
Bảng 2.4: Bảng phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn

15

thực hiện phân loại đúng. Nhưng cho đến nay, dự án phân loại CTR tại nguồn
trên địa bàn quận 6 đã tạm ngừng thực hiện vì dự án chưa được cấp vốn. Quy
định về phân loại CTR tại nguồn cho 24 quận, huyện đang vướng về nguồn
vốn đầu tư (chưa có nguồn vốn cụ thể) và qui định xử phạt vi phạm khi triển
khai thực hiện phân loại. Để từng bước triển khai chương trình phân loại CTR
tại nguồn trên địa bàn thành phố, bước đầu sẽ ưu tiên triển khai thực hiện tại
các chợ đầu mối, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn,... Bên
cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh cũng đang khẩn trương xây dựng quy định về
phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn thành phố để làm cơ sở triển khai thực
hiện đồng bộ việc phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn vào năm 2015. Tính tới
tháng 5/2015, thành phố đã thực hiện chương trình phân loại CTR tại nguồn ở
nhiều quận nhưng hiệu quả còn chưa cao, do hệ thống thu gom còn manh mún,
thiếu đồng bộ, thiếu quy hoạch hệ thống các trạm trung chuyển và tuyến vận
chuyển tối ưu, nhà máy tái chế quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, chưa có chính
sách cụ thể hỗ trợ hoạt động tái chế, chưa quy hoạch khu vực dành riêng cho
các cơ sở tái chế, đội ngũ cán bộ tham gia công tác quản lý chất thải vừa thiếu
lại vừa yếu, chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tế.
Phân loại CTR tại nguồn phụ thuộc nhiều vào trình độ nhận thức của
người dân, cơ sở vật chất, kỹ thuật của từng địa phương. Để thực hiện tốt quá
trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, trước tiên nhà nước cần đưa

17


ra một hệ thống phân loại chất thải rắn sinh hoạt cụ thể để người dân dễ dàng
thực hiện theo. Đồng thời, cần tổ chức nhiều chương trình hướng dẫn phân
loại CTRSH tại nguồn. Nhà nước cũng cần thay đổi phương thức thu gom
như hiện tại để vai trò của quá trình phân loại nâng cao và tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác xử lý cuối cùng.
2.2.2. Hiện trạng thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH tại Việt Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status