MỘT số GIẢI PHÁP đấu TRANH PHÒNG CHỐNG âm mưu THỦ đoạn DIỄN BIẾN hòa BÌNH của các THẾ lực THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH vực tư TƯỞNG lý LUẬN HIỆN NAY - Pdf 42

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG ÂM MƯU THỦ
ĐOẠN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN HIỆN NAY
Công tác tư tưởng, lý luận là một bộ phận quan trọng của công tác xây
dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng, tác động vào ý thức cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân để định hướng nhận thức, giải quyết mâu thuẫn tư
tưởng, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người và đấu
tranh chống mọi tư tưởng, lý luận sai trái, làm cho thế giới quan và hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân giữ địa vị thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, góp
phần hình thành con người mới và xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận là một nội dung, hình
thức có vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận. Thông qua
đấu tranh nhằm bảo vệ, phát triển, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và sự nghiệp cách mạng, giữ vững trận địa chính trị tư tưởng của Đảng
trong toàn xã hội.
Đấu tranh phòng, chống chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư
tưởng lý luận hiện nay, thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai ý thức hệ xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; là cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, quyết liệt,
phức tạp, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên mặt trận này, Đảng ta đã có nhiều văn bản chỉ thị, nghị quyết nêu rõ
các quan điểm, nhiệm vu và giải pháp lớn. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các văn
bản của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống chiến lược
“Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng lý luận, đã thể hiện nhất quán các
quan điểm cơ bản: Một là, Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng lý luận hiện nay. Hai
là, Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là bộ phận khăng khít của cuộc
đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư



3
1.1. Quá trình hình thành, phát triển chiến lược “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch
1.1.1. Khái niệm
“Diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa, từ bên trong, chủ yếu bằng các biện
pháp phi quân sự.
Mặc dù có tên gọi là “Diễn biến hòa bình” nhưng thực chất chiến lược
này không phải mang lại hòa bình, duy trì hòa bình hay bảo vệ hòa bình cho
nhân loại mà thực chất là chiến lược phản hòa bình, xóa bỏ hòa bình; là một
dạng chiến tranh đặc biệt- chiến tranh không có tiếng súng, không có khói lửa;
là một chiến lược phản cách mạng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch, phản động nhằm lật đổ chế độ chính trị xã hội của các nước tiến bộ,
trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa. Phương thức tiến hành chủ yếu của nó
là bằng các biện pháp phi quân sự như biện pháp về tư tưởng lý luận, kinh tế,
ngoại giao… Quá trình chống phá được tiến hành từ ngay bên trong lãnh thổ,
trong nội bộ tổ chức, trong mỗi con người... của đối phương làm cho đối
phương mơ hồ, mất cảnh giác dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa chế độ
chính trị xã hội.
1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển
Dưới thời chủ nghĩa đế quốc, “Diễn biến hòa bình” lúc đầu là một
phương thức, một thủ đoạn hỗ trợ cho hành động quân sự để ngăn chặn chủ
nghĩa xã hội. Theo thời gian nó dần phát triển trở thành một bộ phận chủ yếu
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ và phát triển thành một chiến lược phản cách
mạng cơ bản nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội với tư tưởng “chiến thắng không
cần chiến tranh”. Quá trình hình thành, phát triển của nó có thể chia làm hai
giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ sau Đại chiến thế giới II (3.1947) đến những năm
cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đây là giai đoạn hình thành những tư tưởng

mưu lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đalét đã vạch ra chiến lược mới
dùng “Diễn biến hòa bình” - “chính sách giải phóng”. Ngay từ năm 1953, khi
nhậm chức quốc vụ khanh của Mỹ, ông ta đã tuyên bố sẽ dùng “chính sách giải
phóng” “có sức mạnh và chủ động hơn” để thay thế cho “chính sách ngăn
chặn” không có hiệu quả. Ông ta nói “chúng ta cần phải luôn nhớ tới vấn đề


5
giải phóng của những người đang bị nô dịch. Song giải phóng không có nghĩa
là chiến tranh. Giải phóng có thể dùng những biện pháp ngoài chiến tranh, biện
pháp hòa bình” (“Diễn biến hòa bình” và chống “Diễn biến hòa bình” , tr.43).
“Biện pháp hoà bình” mà Đalét đề cập ở đây chính là “Diễn biến hòa bình”
song vẫn dùng răn đe quân sự làm hậu thuẫn, tạo ra sức thâm nhập kinh tế,
chính trị, văn hoá tư tưởng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khiến chủ nghĩa
xã hội tan rã từ trong lòng của nó”, “rút ngắn tuổi thọ của chủ nghĩa xã hội”.
Ngày 15 tháng 01 năm 1953, khi điều trần trước Nghị viện Mỹ, ông hùng hồn
tuyên bố rằng “biện pháp để làm sụp đổ sự đe doạ của chủ nghĩa xã hội đối với
thế giới tự do cần phải và chỉ có thể tiến hành bằng biện pháp hoà bình. Thật
ngây thơ nếu ai không tin vào sức ép của tinh thần, không tin vào hiệu quả của
tuyên truyền”.
Trong thời gian này, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn chặn” chủ
nghĩa xã hội là chính, còn “Diễn biến hòa bình” được xem như một biện pháp
hỗ trợ cho tiến công quân sự để xâm nhập vào các lĩnh vực, thúc đẩy sự biến
đổi bản chất của chế độ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao công khai tuyên bố sẽ thực
hiện chiến lược giành thắng lợi bằng hòa bình. Những năm sau đó, nhiều đời
Tổng thống kế tiếp như Kennơđi, Giônxơn, Níchxơn, Pho...đã coi trọng và
thực hiện biện pháp “hòa bình” để chống lại phong trào cộng sản trên thế giới.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 10 năm 1983, Mỹ triệu tập hội nghị “dân chủ
hoá các nước xã hội chủ nghĩa” với mục đích tìm biện pháp thúc đẩy “tự do

chủ nghĩa còn lại, hình thành trật tự thế giới đơn cực do Mỹ cầm đầu. Thực
hiện “can dự và mở rộng”, Mỹ tăng cường vai trò của mình trong các vấn đề
quốc tế, can thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ các nước có chủ quyền, chống
lại phong trào độc lập dân tộc, xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiềm
chế các nước có khả năng thách thức vị trí siêu cường của Mỹ, tiêu diệt các
nước cứng đầu, các nước chống lại Mỹ hoặc không tuân theo “gậy” chỉ huy
của Mỹ. Thực hiện mưu đồ đó, Mỹ lấy “Diễn biến hòa bình” là chủ yếu kết
hợp với kích động các hoạt động chống đối, bạo loạn lật đổ từ trong nội bộ các
nước đồng thời vẫn duy trì sức ép quân sự để sẵn sàng can thiệp vũ trang từ
bên ngoài vào… làm suy yếu để chuyển hoá và tiến tới lật đổ chế độ chính trị
xã hội của các nước tiến bộ và các nước xã hội chủ nghĩa.
Các đời Tổng thống Mỹ sau này như Clintơn, Bush, Ôbama… đã nhiều
lần điều chỉnh và công bố các chiến lược an ninh quốc gia mới song về cơ bản


7
Mỹ vẫn thực hiện “Diễn biến hòa bình” nhưng biện pháp, bước đi có sự điều
chỉnh cho phù hợp với tình hình mới như thông qua viện trợ, trao đổi buôn
bán, mậu dịch, du lịch, giao lưu, đào tạo lưu học sinh... Mới đây, Tổng thống
Ôbama tuyên bố chiến lược an ninh quốc gia mới, không thực hiện chiến lược
quân sự “tiến công chặn trước, đánh đòn phủ đầu”. Chính vì thế, trên thực tế
chúng càng coi trọng và đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”,
can thiệp sâu hơn vào nội bộ các quốc gia có chủ quyền, bất chấp luật pháp
quốc tế, ngang nhiên triển khai lực lượng của mình ở nhiều nước để thực hiện
cái gọi là “tiêu diệt các lực lượng khủng bố, các phần tử khủng bố”….
Từ đó, có thể khẳng định rằng hiện nay và về sau này, chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch phản động vẫn sử dụng “Diễn biến hòa bình” là chiến
lược phản cách mạng cơ bản để tiếp tục chống phá các nước tiến bộ và các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của chiến lược “Diễn biến hòa bình”

lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch không giới hạn thời gian và
không gian, là chiến lược phá hoại toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, ngoại giao... đẩy đối phương suy yếu dẫn đến
rối loạn nội bộ rồi sụp đổ.
1.2. Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống
phá cách mạng Việt Nam.
1.2.1. Khái quát quá trình chống phá cách mạng Việt Nam của các
thế lực thù địch.
Quá trình chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch luôn coi
Việt Nam là một mắt xích, trọng điểm chống phá. Chúng không từ bất kỳ âm
mưu thủ đoạn nào nhưng luôn coi trọng sử dụng “Diễn biến hòa bình”. Chúng
chống phá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với mọi tổ chức,
mọi lực lượng, mọi địa bàn, mọi vùng, miền của đất nước và có thể chia quá
trình đó thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến tháng 4
năm 1975. Thời kỳ này chủ nghĩa đế quốc dùng hành động quân sự là chủ yếu
tiến hành gây chiến tranh xâm lược Việt Nam, âm mưu biến Việt Nam thành
thuộc địa (cả kiểu cũ và mới) của chúng, song chúng vẫn sử dụng “Diễn biến
hòa bình” để hỗ trợ cho hành động quân sự đi xâm lược. Tuy nhiên âm mưu


9
thủ đoạn đó của chúng đã bị thất bại hoàn toàn trước tinh thần, ý chí và sức
mạnh của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn hai từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 01 năm 1994. Thất bại
bằng hành động quân sự, không đạt được mục đích xâm lược Việt Nam, biến
Việt Nam thành thuộc địa, chúng chuyển sang chống phá bằng biện pháp phi
quân sự, bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” là chủ yếu với các thủ đoạn nổi
bật nhất lúc này là “bao vây, cấm vận kinh tế”, “cô lập về ngoại giao”, lợi dụng
những khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, những yếu kém trong công tác

đạo của chủ nghĩa tư bản phục vụ cho quyền lợi của Mỹ ở khu vực.
Để thực hiện được mục tiêu đó chúng không từ bất kỳ thủ đoạn nào.
Trong đó, thủ đoạn chống phá chủ yếu chúng là thực hiện ngầm (Bí mật, ngấm
ngầm thông qua bình phong, “vỏ bọc” như các vấn đề “tự do”, “dân chủ”,
“nhân quyền”, “chống tham nhũng”, “góp ý kiến xây dựng Đảng”... tìm mọi sơ
hở, thiếu sót ngay trong nội bộ đối phương để chống phá làm cho đối phương
không nhận biết được mục đích, bản chất của sự chống phá dẫn đến mơ hồ,
mất cảnh giác, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ...); mềm (dùng các
biện pháp phi vũ trang là chủ yếu thay cho hành động vũ trang cứng rắn trước
đây, đối thoại thay cho đối đầu, bắt tay thay cho súng đạn. Nếu nhìn hiện
tượng bên ngoài rất thân thiện, rất gần gũi, song sự thân thiện và gần gũi đó là
giả tạo, để che đậy cho các các âm mưu và hành động chống phá, còn thực chất
sự chống phá, tinh vi hơn, linh hoạt hơn và quyết liệt hơn); và sâu (chống phá
từ bên trong, cài cắm, tạo dựng lực lượng chính trị phản động chống đối trong
nội bộ đối phương, thúc đẩy đối phương suy yếu, rối loạn, tự diễn biến, tự
chuyển hóa từ bên trong, từ trên cao. Chống phá toàn diện nhưng có xác định
trọng tâm, trọng điểm ...).
Chúng chống phá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với
mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi địa bàn, mọi vùng miền của đất nước. Trong
đó, lấy chống phá về tư tưởng lý luận là khâu trọng tâm “đột phá”; chống phá
về kinh tế là “mũi nhọn”; lĩnh vực dân tộc, tôn giáo được coi là “ngòi nổ”;
ngoại giao để “hỗ trợ”; quân sự để “răn đe”. Kết hợp công khai với bí mật, hợp
pháp với bất hợp pháp. Đặc biệt triệt để khai thác và lợi dụng những sơ hở, yếu
kém trong công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, những khó khăn thiếu thốn trong
đời sống, những mâu thuẫn bức xúc trong nhân dân, những điểm nóng trong nội
bộ của ta để chống phá... kết hợp với tạo dựng lực lượng phản động từ bên trong
làm cho ta tự suy yếu, tự diễn biến, dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị xã hội.


11

số trang Web phản động do các thế lực thù địch dựng lên xuất hiện nhiều bài


12
viết hùng hồn tuyên bố “Diễn biến hòa bình” sẽ làm cho Việt Nam “tan làng,
nát xã, rã huyện, lay chuyển tỉnh để điều chỉnh Trung Ương”. Để làm mất
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, các
thế lực thù địch triệt để khai thác, lợi dụng một số yếu kém trong quản lý xã
hội của ta để rêu rao với lời lẽ thâm độc “Trung Ương chỉ biết tương xuống
tỉnh, tỉnh chỉnh huyện, huyện điện xuống xã, xã nã xuống thôn, thôn dồn
xuống xóm, xóm tóm cổ dân”; hay như là “Đảng chỉ tay, Quốc hội dơ tay, mặt
trận vỗ tay, chính quyền bó tay, doanh nghiệp móc tay, nhân dân trắng tay...”.
Gần đây, sau sự kiện cưỡng chế đất ở Tiên Lãng- Hải Phòng, Văn Giang –
Hưng Yên, chúng ra sức rêu rao... “chính quyền bất nhất, cán bộ bất minh,
chính trị xã hội bất ổn, nhân dân bất an”... Chúng biến cái không thể thành có
thể, thật giả, trắng đen lẫn lộn khó phân biệt, không mua được bằng tiền thì
mua bằng rất nhiều tiền, bằng gái đẹp, bằng uy quyền... Nhịp điệu chống phá
từ từ, liều lượng vừa đủ, mềm dẻo, linh hoạt…để ta khó nhận biết bản chất và
bộ mặt thật của chúng và từ tác động ban đầu chúng mong muốn làm cho ta tự
chuyển hóa, tự diễn biến từ trên cao, ngay trong nội bộ...
2.1.2. Thủ đoạn chủ yếu
Chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nói xấu
lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Rất thâm độc, thời gian qua chúng
đã xây dựng và trình chiếu bộ phim “Sự thật về Hồ Chí Minh” nhưng hoàn
toàn không đúng sự thật nhằm bôi nhọ và “phá vỡ nền tảng cuối cùng của chế
độ cộng sản Việt Nam là hình tượng chủ tịch Hồ Chí Minh”. Chúng xuyên tạc
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của ta
là “nhốt cả dân tộc vào cái rọ chuyên chính vô sản về mặt chính trị”. Chúng
nghiên cứu rất kỹ chủ nghĩa Mác- Lênin để tìm cách chống phá, xuyên tạc.

Năm 2009 lực lương an ninh Việt Nam từng phá vụ án với mã số T509 bắt các
tên cầm đầu Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim....đã xét xử
ngày 20 tháng 01 năm 2010 với tội danh chống phá nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trong lời khai nhận tội, các đối tượng trên đều thừa nhận
đã nhiều lần tiếp xúc, chịu sự chỉ đạo và làm việc cho phản động nước ngoài.
Gần đây chúng công khai cổ súy, giật dây, kích động những nhân vật như
Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, Cù Huy Hà Vũ... chống
đối ta trên nhiều mặt, nói xấu Đảng và Nhà nước, đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp


14
nước ta, bôi đen hai cuộc kháng chiến của dân tộc, đòi đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập... Trong khi Việt Nam chúng ta thống nhất trong toàn Đảng, toàn
dân, toàn xã hội một phương hướng chính trị duy nhất (nhất nguyên chính trị)
đúng là đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch ra sức tuyên
truyền, gây sức ép và bằng nhiều thủ đoạn, mong muốn trong Đảng và xã hội
xuất hiện nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau từ đó đòi đa nguyên chính
trị, đảng đối lập. Hoặc như chúng từng rêu rao và tuyên truyền “cái” mà Việt
Nam ta đang ra sức xây dựng không phải là chủ nghĩa xã hội mà thực chất là
chủ nghĩa tư bản định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng triệt để lợi dụng và núp dưới chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân
quyền”, đòi “tự do dân chủ, tự do báo chí, tự do bầu cử”... để chống phá. Uỷ
ban nhân quyền Mỹ đã từng đề xuất để Hạ viện Mỹ thông qua dự luật nhân
quyền Việt Nam chúng đưa ra 5 nội dung (Biện pháp, chế tài trừng phạt nếu
Việt Nam không cải thiện tình hình nhân quyền; đưa ra những “tiêu chuẩn” đo
lường nhân quyền của Việt Nam; chi ngân sách 2 triệu đôla để phát triển nhân
quyền ở Việt Nam; chi 10 triệu đôla để phát triển đài Châu Á tự do và đẩy
mạnh chương trình định cư cho người Việt tại Mỹ). Hoặc như nghị quyết nhân
quyền đòi thả Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Cù huy
Hà Vũ... đây là những điều vô lý, nực cười và thực chất là chúng đang lợi dụng

chúng ta phải luôn cảnh giác, tỉnh táo, tích cực chủ động và kiên quyết đấu
tranh làm thất bại nó.
2.2. Một số giải pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu thủ đoạn
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng lý
luận đối với Việt Nam hiện nay.
Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng lý luận đối với Việt Nam hiện nay cần
quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34- CT/TW, ngày 17 tháng 4 năm
2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống
âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa và
Thông báo số 21-TB/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng “Về tăng cường công tác nghiên cứu, đấu tranh chống thông tin,
quan điểm sai trái, thù địch” nhằm giữ vững định hướng chính trị xã hội chủ
nghĩa, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5, khóa X, ngày 01/8/2007 “Về công


16
tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Triển
khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm
thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, thực hiện đa nguyên chính trị, hình
thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường
xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương
và các ngành, các cấp” và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Trong đó cần tập
trung vào một số giải pháp cụ thể.
2.2.1. Kiên trì lập trường quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và sự nghiệp cách mạng, không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bổ
sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội.

nhân dân. Chính vì vậy trong bất kỳ tình huống nào Đảng ta cũng phải kiên
định với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nguyên tắc
bất di bất dịch của Đảng. Xa rời nguyên tắc này tất yếu sẽ dẫn đến xa rời bản
chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản, xa rời mục tiêu, lý tưởng, hệ tư
tưởng cách mạng và khoa học của Đảng, làm cho Đảng thoái hoá, biến chất,
không còn đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, trí tuệ để lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa cho
thấy, kiên trì lập trường quan điểm lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư
tưởng không đồng nghĩa với việc biến chủ nghĩa Mác-Lênin thành một thứ
kinh thánh để ca tụng và vận dụng giáo điều, máy móc. Vấn đề là Đảng phải
nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ;
phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý
luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược,
phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vô nguyên tắc, chủ
quan, nóng vội.
Bên cạnh việc bổ sung, phát triển lý luận, phải kiên trì đấu tranh với các
tư tưởng, quan điểm sai trái, những nhận thức không đúng để bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, bảo vệ lý tưởng mác xít, làm cho các giá trị tiến bộ của nhân loại
trở nên sống động trong hiện thực và trong tâm hồn, trái tim mỗi con người, trở
thành giá trị vĩnh hằng của nhân loại. Đồng thời, tăng cường nghiên cứu, học


18
tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn dân vào từng hoạt
động, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để cho tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho

19
thiết phải xây dựng cơ sở chính trị trong sạch vững mạnh gắn với đấu tranh
phòng chống có hiệu quả quan liêu tham nhũng và tiêu cực, tệ nạn xã hội và
đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Để xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh và đấu tranh phòng chống có
hiệu quả quan liêu tham nhũng và tiêu cực xã hội trước hết phải củng cố và giữ
vững trận địa chính trị tư tưởng trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, phẩm chất năng lực, đạo
đức cách mạng, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện
cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ở địa
phương, cơ sở đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả. Tập trung nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp uỷ Đảng cơ sở, xây dựng Đảng
thực sự trong sạch vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ theo đúng tinh thần Nghị
quyết Trung Ương 4 khóa XI. Duy trì nghiêm kỷ luật của Đảng ở các cấp, xử lí
kịp thời những cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng có khuyết điểm; khen thưởng
kịp thời những đảng viên, tổ chức Đảng và quần chúng thực hiện tốt đường lối,
chủ trương, Điều lệ Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng
xây dựng và củng cố các tổ chức ở cơ sở thực sự trong sạch vững mạnh, làm
việc đúng chức năng, nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của
đội ngũ cán bộ đảng viên ở cơ sở. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở gắn
với kỷ luật, kỷ cương. Củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, nền nếp hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội, các
cộng đồng dân cư. Đổi mới và cải cách thủ tục hành chính, xây dựng nền nếp
và quy chế làm việc gần dân, tôn trọng nhân dân, sâu sát thực tế. Quan tâm
chăm lo và bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.
Triệt để giải quyết những vướng mắc, khó khăn, không để tạo thành bức xúc
kéo dài trong nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào hành động cách
mạng trong nhân dân, nhất là phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá mới. Kiên quyết đấu
tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đẩy lùi những biểu hiện suy

dân ta. Phải tổ chức học tập, giáo dục, tuyên truyền để mọi người hiểu đúng
bản chất và những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò thống
trị trong đời sống chính trị tinh thần của xã hội. Làm cho nhân dân và lực
lượng vũ trang nhân dân ta nhận thức sâu sắc đường lối quan điểm của Đảng;


21
đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Xây dựng sự đồng thuận trong xã hội trên cơ sở nhận thức sâu sắc lí
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, sự đồng thuận trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng ta. Xây dựng niềm tin vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện nay; niềm tin vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Tỉnh táo vạch trần
những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ
nhận vai trò và đường lối lãnh đạo của Đảng ta. Kiên quyết đấu tranh chống
âm mưu, thủ đoạn đa nguyên chính trị của các thế lực thù địch (chúng muốn và
tìm mọi cách để trong nội bộ Đảng, nhân dân và xã hội ta xuất hiện nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau, thậm chí là đối lập nhau để từ đó đòi thực
hiện đa đảng đối lập. Mục đích cuối cùng của chúng thực chất nhằm xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng ta, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là duy nhất đúng).
Đồng thời phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quân và dân
ta. Luôn luôn đề cao cảnh giác, nắm chắc mọi âm mưu, thủ đoạn mới mà các
thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta. Bởi vì “Diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng lý luận các thế lực thù địch thực hiện “ngầm,
mềm, sâu”, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, che đậy bản chất phản động; ru ngủ
tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân và lực lượng vũ trang. Nhịp điệu
phát triển từ từ, liều lượng vừa đủ để đối phương khó có thể nhận biết, nhìn

mạng Việt Nam.
2.2.4. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Giữ vững sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội
dung đặc biệt quan trọng đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến
hòa bình” trên mặt trận tư tưởng lý luận. Bởi vì “Diễn biến hòa bình” với mục
tiêu xuyên suốt là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, lái Việt Nam vào
quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Ta giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội tức là đã làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “Diễn
biến hòa bình” của địch. Hơn nữa hiện nay, chệch hướng xã hội chủ nghĩa còn
là một nguy cơ của cách mạng nước ta thì việc giữ vững sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội


23
nhưng trước hết và quan trọng hàng đầu là định hướng về chính trị tư tưởng và
kinh tế… ở tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến địa phương, cơ sở;
trong mọi tổ chức, mọi con người nhất là trong đội ngũ cán bộ đảng viên, trong
Đảng, trong hệ thống chính trị…
Chống và khắc phục mọi biểu hiện chệch hướng về chính trị từ cấp vi
mô đến vĩ mô. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở hầu hết các
lĩnh vực đời sống xã hội và ngay cả trong tư duy, cách nghĩ, cách làm ở mỗi
người mà không thể xem nhẹ. Đặc biệt, khi nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, sẽ xuất hiện
nhiều tiêu cực cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội như phân hoá giàu
nghèo ngày một gia tăng, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, sự tha hoá
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, sự gia tăng
các tệ nạn xã hội …Trong khi đó Đảng và Nhà nước ta cho phép đảng viên làm
kinh tế tư nhân không giới hạn quy mô, nếu không có sự hướng dẫn và những

đường, tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của
một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm xói mòn nền tảng và
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nảy sinh lối sống thực dụng, vụ lợi,
vị kỷ, thích hưởng lạc, sa đọa; cái xấu, cái ác, phi nhân tính có dấu hiệu tăng
lên. Môi trường đạo đức và văn hoá lành mạnh bị đe dọa, có nguy cơ lệch
chuẩn dẫn tới khủng hoảng tinh thần và niềm tin của một bộ phận công chúng.
Tình trạng đó đó và đang ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị xã hội, dẫn
đến khuynh hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị trong
xã hội. Hơn nữa, một số tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, mặt trận Tổ quốc và
đoàn thể các cấp... chưa nhận thức rõ tác hại nghiêm trọng của các sản phẩm
văn hoá độc hại. Đồng thời do sự yếu kém, lúng túng, bị động, buông lỏng
trong quản lý xã hội, quản lý văn hoá; sự bất cập của cơ chế quản lý trước
những đặc điểm mới của quá trình hội nhập quốc tế; sự chống phá của các thế
lực thù địch triệt để khai thác và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
đài phát thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh, ca nhạc, văn học nghệ thuật...
để tiến hành “Diễn biến hòa bình” chống phá trên mặt trận tư tưởng văn hóa.
Vì thế mà phải xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng
nhận thức cho cán bộ đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ biết kế thừa
và phát triển trên cơ sở chọn lọc những tinh hoa truyền thống dân tộc và văn
hóa nhân loại. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản
ánh diện mạo, cốt cách của nền văn hoá Việt Nam, là dấu hiệu cơ bản để phân


25
biệt văn hoá Việt Nam với văn hoá dân tộc khác. Biểu hiện tập trung trong
truyền thống văn hoá dân tộc, lòng yêu nước, ý chí tự lực tự cường, tinh thần
đoàn kết, nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc của
văn hoá Việt Nam là “căn cước”, là “bộ gien” di truyền của văn hoá dân tộc.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là yêu cầu khách quan, là mục tiêu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status