Thực trạng bạo lực tinh thần đối với phụ nữ mang thai tại huyện đông anh, hà nội năm 2014 và một số yếu tố liên quan - Pdf 42

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀNG VÂN HƢƠNG

THỰC TRẠNG BẠO LỰC TINH THẦN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ MANG THAI
TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI NĂM 2014
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC DỰ PHÒNG

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀNG VÂN HƢƠNG
THỰC TRẠNG BẠO LỰC TINH THẦN ĐỐI VỚI PHỤ NỮ MANG THAI
TẠI HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI NĂM 2014
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC DỰ PHÒNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu tôi đã tham gia chính trong tất
cả các giai đoạn. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn này là trung thực và chƣa
đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2015
Tác giả Luận văn

Nguyễn Hoàng Vân Hương


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

BLTT

Bạo lực tinh thần

CDC

Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh
(Centers for Disease Control and Prevention)

ĐTNC

Đối tƣợng nghiên cứu

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

ảnh hưởng lớn đến sức khỏe sinh sản của người phụ nữ và những đứa con của
họ. Ở mức độ trầm trọng hơn, bạo lực có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng cho người phụ nữ như tàn tật hoặc tử vong [1].
Phụ nữ bị bạo lực do chính gia đình mình xảy ra khá phổ biến và xảy ra
ở nhiều nơi trên thế giới [2] [3]. Bạo lực do chồng (Intimate partner violence:
IPV) là hình thức phổ biến nhất của bạo lực, nó xảy ra ở tất cả các quốc gia và
để lại hậu quả nặng nề đối với người phụ nữ, không phân biệt xã hội, kinh tế,
văn hóa, hay tôn giáo [4].
Tại Việt Nam, theo báo cáo quốc gia về tình hình bạo lực năm 2010, có
58% phụ nữ từng bị bạo lực ít nhất một lần trong đời, và có 54% phụ nữ bị bạo
lực tinh thần [5]. Tỷ lệ bị bạo lực tinh thần có thể tăng lên nữa vì với những
phụ nữ phải chịu bạo lực thể xác hay bạo lực tình dục thường sẽ đi kèm với
bạo lực tinh thần. Bạo lực tinh thần là hình thức bạo lực không nhìn thấy được,
nhưng nó lại là hình thức bạo lực phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các
loại hình bạo lực gây ra trên người phụ nữ. Thêm và đó, có những phụ nữ
không biết rằng mình đang bị bạo lực tinh thần[6].
Người phụ nữ không chỉ chịu hành vi bạo lực từ chồng hay từ những
người khác trong thời gian suốt thời gian sống cùng chồng (sống cùng gia đình
nhà chồng) mà thậm chí họ còn bị bạo lực trong thời gian mang thai - thời gian
họ cần được chăm sóc nhiều hơn. Trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực trong
khi mang thai được ước tính từ 0,9% đến 20,1% [7]. Ở Việt Nam, theo một
nghiên cứu gần đây nhất (năm 2010), tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực thể xác trong khi
mang thai là 4,7% [3]


2

Bạo lực nói chung và bạo lực tinh thần nói riêng thường dẫn đến những
ảnh hưởng về mặt sức khỏe đối với người phụ nữ, đặc biệt là đối với phụ nữ
mang thai. Những phụ nữ mang thai bị bạo lực có thể dẫn đến việc sinh non,

Anh, Hà Nội năm 2014.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ mang
thai tại huyện Đông Anh, Hà Nội năm 2014.


4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm và phân loại bạo lực
1.1.1.Khái niệm
 Bạo lực: Bạo lực được hiểu là “dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc
lật đổ”. Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính
trị, nhưng trên thực tế, bạo lực được coi như một phương thức hành xử
trong các quan hệ xã hội nói chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng
và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất phong phú được chia thành nhiều
dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy và bạo
lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ [11]
 Bạo lực gia đình: Luật Phòng chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ) của Quốc
Hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ bạo lực gia đình
là: “Hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây
tổn hại các thành viên khác trong gia đình”. Thành viên gia đình là những
người gắn bó với nhau bởi hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau.


Bạo lực trên cơ sở giới (Liên hiệp quốc - 1993): “Bất kỳ một hành động bạo
lực nào trên cơ sở giới dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến, những tổn thất
về thân thể, tình dục, tâm lý hay những đau khổ của phụ nữ bao gồm cả sự
đe dọa có những hành động như vậy, sự cưỡng bức hay tước đoạt một cách
tùy tiện sự tự do dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay cuộc sống riêng tư” đều


- Bạo lực bởi cộng đồng là bạo lực gây ra bởi những người không có mối
quan hệ gì với nhau, những người lạ hay những người có thể chỉ quen
biết, thường xảy ra ở bên ngoài gia đình.
Trong nghiên cứu này chỉ đề cập đến bạo lực được thực hiện bởi người khác,
cụ thể là bạo lực được thực hiện bởi những người đàn ông với vợ/ bạn tình của
họ (IPV) (được biểu diễn bằng ô màu đỏ trong sơ đồ dưới đây).


6

Hình 1.1. Phân loại bạo lực theo WHO năm 2002 [3]
Bạo lực do chồng hay bạn tình (IPV-Intimate partner violence): là hành vi
bạo lực về thể chất, tình dục và bạo lực tinh thần do chồng hoặc bạn tình gây ra
[15]. Trong nghiên cứu này chúng tôi dùng từ “Bạo lực do chồng” để phù hợp
với văn hóa Việt Nam.
Chồng/Bạn tình trong nghiên cứu này có thể là những người đã kết hôn hoặc
chưa kết hôn; người có quan hệ tình dục với người khác giới; sống cùng nhau,
ly thân, ly hôn hoặc những người đang trong thời gian hẹn hò.
Theo WHO năm 2002, ngoài phân loại loại bạo lực như trên còn phân
loại bạo lực theo tính chất hành vi bạo lực bao gồm có: Bạo lực thể chất, bạo
lực tinh thần, bạo lực tình dục, bạo lực kinh tế [14]:
 Bạo lực thể chất là những hành vi gây tổn hại đến cơ thể với nhiều dạng và
mức độ khác nhau từ nhẹ đến nặng, thậm chí có thể gây tử vong: bạt tai,
túm tóc, tát, đấm, đá, bóp cổ, giam hãm, đốt, tạt a xit, dùng hung khí…


7

 Bạo lực tinh thần là những hành vi chửi mắng, đe doạ, lăng mạ hoặc hành

Khảo sát của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2001 tại 10 nước khu vực
Đông Nam Á cho thấy có từ 10 - 69% phụ nữ đã bị bạo lực thể chất bởi
chồng/bạn tình của mình; 6 - 59% phụ nữ bị bạo lực tình dục, 30 - 50% phụ nữ
bị bạo lực thể chất và tình dục, 4 - 12% phụ nữ mang thai bị bạo lực và 90% là
do chồng gây ra. Mức độ phổ biến của bạo lực gia đình có thể khác nhau ở các
vùng lãnh thổ khác nhau, song chúng hiện diện trong đời sống gia đình ở mọi
quốc gia. Nghiên cứu những năm gần đây về tình trạng bạo lực đối với phụ nữ
cho thấy tỷ lệ vẫn còn cao tại một số quốc gia. Nghiên cứu năm 2009 tại Tây
Ban Nha thì trong 2136 phụ nữ được chọn làm mẫu nghiên cứu thì có 10,1%
trong số đó bị bạo lực từ chồng (hay bạn tình) trong vòng 1 năm trước thời
điểm nghiên cứu, và có đến 8,6% những phụ nữ có những trải nghiệm về bạo
lực thể xác từ người chồng (bạn tình) [19]. Nghiên cứu mới nhất tại Peru năm
2015 cho kết quả 45,1% phụ nữ bị bất kỳ một loại bạo lực nào trong đời từ
chồng (hay bạn tình), trong đó bạo lực thể xác là 32,4%; bạo lực tinh thần là
28,4% và bạo lực tình dục là 8,7% [20].
1.2.2. Bạo lực đối với phụ nữ mang thai trên thế giới
1.2.2.1. Bạo lực chung đối với phụ nữ mang thai
Theo Nghiên cứu đa quốc gia về Sức khỏe phụ nữ và Bạo lực gia đình
(2005) của WHO tại 10 quốc gia, có sự khác biệt lớn về tỉ lệ phụ nữ bị bạo lực
giữa các khu vực nghiên cứu khác nhau, và có sự khác nhau giữa các loại hình
bạo lực. Với mỗi loại hình bạo lực thì tỷ lệ dao động cũng khá lớn [21]. Đối
với phụ nữ có thai, theo nghiên cứu của WHO năm 2002, có 8 - 44% phụ nữ
mang thai báo cáo rằng mình bị bạo lực trong quá trình mang thai đối với bất
kỳ một hình thức bạo lực nào, trong đó một phần tư tới một nửa số phụ nữ bị


9

bạo lực thể xác trong khi mang thai đã bị đấm hoặc đá vào giữa bụng. Trong số
những phụ nữ bị bạo lực trong thời gian mang thai thì có tới hơn 90% trong số

hình bạo lực tinh thần ở những phụ nữ mang thai thường có tỷ lệ dưới 15%
[26] [27]. Những nghiên cứu trước đây về tình hình bạo lực tinh thần ở phụ nữ
mang thai tại các nước phát triển thường có tỷ lệ thấp hơn những nước đang
phát triển, điều này có thể được giải thích do những chương trình về bạo lực
gia đình đã được phổ biến với phụ nữ từ rất lâu tại các quốc gia này. Hơn nữa,
do sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo, sự bình đẳng nam nữ đã làm cho tỷ lệ bị
bạo lực trong thời gian sống cùng chồng (bạn tình) và tỷ lệ bị bạo lực trong
thời gian mang thai của những phụ nữ tại các nước phát triển thì thấp hơn so
với những nước đang phát triển như châu Á hay châu Phi [26] [27] [28].
Nghiên cứu tại Mehico năm 2003 về vấn đề này cho kết quả là 24,5% phụ nữ
mang thai bị bạo lực và bạo lực tinh thần chiếm 83,4% trong số những phụ nữ
bị bạo lực [22]. Trong một nghiên cứu khác về tình hình bạo lực trên phụ nữ
mang thai tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2005 cho thấy trong 75,3% những phụ nữ bị
bạo lực trong thời gian mang thai thì có đến 77,6% trong số đố bị bạo lực tinh
thần [29]. Nghiên cứu mới nhất tại Peru năm 2015 thì có đến 72,9% phụ nữ bị
bạo lực tinh thần trong thời gian mang thai, trong đó có 23,2% phụ nữ chịu bạo
lực kết hợp cả tinh thần và bạo lực thể xác, 2,7% chịu bạo lực kết hợp tinh
thần và bạo lực tình dục, 9,2% phụ nữ Peru chịu cả ba loại hình bạo lực (thể
xác, tinh thần, và tình dục) trong thời gian mang thai [20].
Trong số những loại hình bạo lực mà chồng (bạn tình) gây ra bao gồm
có bạo lực thể xác, bạo lực tình dục và bạo lực tinh thần,…., thì bạo lực tinh
thần chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các loại hình bạo lực. Hơn nữa, những phụ
nữ bị bạo lực thể xác hay bạo lực tình dục có thể bị cả bạo lực tinh thần [20].
Tỷ lệ bạo lực tinh thần cao như vậy có thể do được lý giải do thời gian mang
thai người phụ nữ thường nhạy cảm hơn những những thời gian khác, hoặc bản
thân họ mong muốn được quan tâm nhiều hơn, bên cạnh đó có thể do chính


11


Nghiên cứu của Viện xã hội học tại Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Thành
phố Hồ Chí Minh (1999) cho kết quả có 16% phụ nữ được điều tra báo cáo đã
bị chồng đánh đập [32]. Nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại
Thái Bình, Tiền Giang, Lạng Sơn năm 2001: 40% phụ nữ cho biết họ từng bị
chồng đánh đập hoặc chửi mắng [33]
Năm 2005, cuộc điều tra nhân khẩu học tại Ba Vì, Hà Tây cho tỷ lệ phụ
nữ từng bị bạo lực thể chất là 30,9% và bạo lực tinh thần là 27,9% [34].
Cũng tại Ba Vì, nghiên cứu của Nguyễn Đăng Vững (2008) về bạo lực
của chồng/bạn tình đối với phụ nữ trên 883 phụ nữ cho thấy có 30.9% phụ nữ
đã từng bị một hình thức bạo lực về thể xác trong cuộc đời và 8.5% trong năm
trước; 32.7% phụ nữ bị kết hợp cả bạo lực thể xác và tình dục trong đời và
9.2% trong năm trước; 55.4% bị bạo lực tinh thần trong đời và trong 12 tháng
trước là 33.7%; 6.6% phụ nữ phải chịu các hành vi bạo lực tình dục từ
chồng/bạn tình trong quãng thời gian sống và 2.2% là tỷ lệ trong năm trước
[35]
1.3.2.Tình hình bạo lực tinh thần ở phụ nữ mang thai
Nghiên cứu quốc gia năm 2010 về bạo lực gia đình đối với phụ nữ của
Tổng cục Thống kê tại 63 tỉnh thành toàn quốc có kết quả rằng: 32% phụ nữ đã
kết hôn bị bạo lực thể chất do chồng; 54% bị bạo lực tinh thần và 10% bị bạo
lực tình dục; 34% phụ nữ bị kết hợp hai loại bạo lực thể chất và tình dục; 27%
phụ nữ bị kết hợp cả ba loại bạo lực thể chất, tinh thần và tình dục [5].
Bạo lực do chồng gây ra cho người phụ nữ trong thời gian mang thai
chiếm 0,14% theo như nghiên cứu quốc gia năm 2010 [5]. Theo một nghiên
cứu về tình hình bạo lực trên những phụ nữ mang thai ở thành phố Hồ Chí
Minh, có 28,3% phụ nữ phải chịu bạo lực trong thời gian mang thai và chủ


13

yếu là họ chịu bạo lực do người chồng theo bảng câu hỏi AAS1. Theo kết quả

CTS2: Thang điểm phương thức đối kháng mâu thuẫn hiệu chỉnh.


14

những phụ nữ này không muốn gia đình mình chịu tai tiếng nên việc họ nhẫn
nhịn, chịu đựng là vấn đề dễ thấy [37] [38].
1.4. Các yếu tố liên quan đến bạo lực tinh thần đối với phụ nữ mang thai
1.4.1. Những yếu tố liên quan đến bạo lực đối với phụ nữ.
Báo cáo tóm tắt kết quả phân tích các yếu tố nguy cơ bị bạo lực từ chồng
năm 2014 của UNFPA cho thấy những nguy cơ có thể ảnh hưởng đến bạo lực
từ chồng đối với người vợ

Gia đình:
-đóng góp kinh tế của vợ
Khu vực

-có con

Chồng:

Vợ:

-tuổi

-trình độ
học vấn

-uống rượu


nạn nhân của bạo lực khi trưởng thành. Tuy nhiên, mối quan hệ này chưa được
nghiên cứu đầy đủ đối với tình trạng bạo lực trong khi có thai.
- Hành vi tình dục độc quyền: Nếu bạn tình nam giới có hành vi tình
dục độc quyền (nền tảng là sự ghen tuông và sở hữu) thì bạn tình nữ có nguy
cơ bị bạo lực cao hơn. Nếu cha đẻ của đứa trẻ nghi ngờ và buộc tội về sự
chung thủy của vợ thì nguy cơ cô ấy bị bạo lực trong thời gian có thai cũng
tăng lên.
- Sự gia trưởng: Sự gia trưởng của bạn tình nam giới có liên quan đến
nguy cơ bị bạo lực trong thời kì phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, mối liên quan
vẫn chưa được đánh giá một cách đầy đủ.
- Sự cô lập xã hội: Sự hiện hữu của mạng lưới hỗ trợ xã hội là một yếu
tố giúp bảo vệ phụ nữ khỏi bạo lực trong khi có thai.
- Bạo hành bằng lời nói: Các nghiên cứu cũng cho thấy bạo lực tinh thần
gắn liên với nguy cơ tăng bạo lực thể xác và/ hoặc bạo lực tình dục trong khi
mang thai.
- Nông thôn/Thành thị: Phụ nữ cư trú ở vùng nông thôn bị hạn chế khả
năng tiếp cận cả dịch vụ y tế và dịch vụ xã hội, có thể bị tăng nguy cơ bị đối xử
bất công.


16

- Chồng/bạn tình nghiện rượu: Phụ nữ có nguy cơ bị bạo lực nhiều hơn
nếu chồng có vấn đề về rượu so với những phụ nữ có chồng không có vấn đề
về rượu.
1.4.2. Những yếu tố liên quan đến bạo lực và bạo lực tinh thần đối với phụ
nữ trong thời gian mang thai

Tiền sử
phá thai


Hình 1.3. Một số yếu tố liên quan đến bạo lực tinh thần của ngƣời phụ nữ
trong thời gian mang thai [28]
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Như Ngọc và các cộng sự năm
2011 về mối liên quan giữa trầm cảm sau sinh và vấn đề bạo lực gia đình thì
thấy có nhiều yếu tố liến quan đến bạo lực gia đình đối với người phụ nữ trong
thời kỳ mang thai như: sự chia sẻ khi khó khăn từ phía người chồng, trầm cảm
trước sinh, sự hiểu biết về luật bạo hành gia đình, số con sống, số lần có thai,
thai kỳ mong đợi, học vấn của chồng, sống chung cùng gia đình chồng, kinh tế
gia đình, tiền sử phá thai, hầu hết những yếu tố mà tác giả đưa ra đều có mối


17

liên quan với bạo lực gia đình và có ý nghĩa thống kê [39]. Tác giả Đường Anh
Tiểu Linh đưa ra kết quả nghiên cứu tình hình bạo lực đối với phụ nữ tại xã
Vân Nội, huyện Đông Anh năm 2014 cho thấy phụ nữ học hết cấp hai có khả
năng bị bạo lực cao hơn những phụ nữ học hết cấp ba trở lên; ngoài ra thì hành
vi của người chồng như hút thuốc lá hay uống rượu là những yếu tố liên quan
đến việc bạo hành trên người phụ nữ; những người chồng uống rượu thì có khả
năng gây bạo lực cho người vợ cao gấp gần 3 lần (95% CI: 1,29-4,81) những
người chồng không uống rượu [40] [30]. Những nghiên cứu về vấn đề này
trong những năm 90 còn cho thấy rằng những người chồng uống rượu có khả
năng gây bạo lực lên người phụ nữ cao gấp 5 (95% CI: 2,14-12,41) so với
những người chồng không uống rượu.
Những nghiên cứu riêng về bạo lực tinh thần đối với phụ nữ trong thời
gian mang thai cho thấy một số yếu tố như trình độ học vấn của người
vợ/chồng, nghề nghiệp của vợ/chồng, mức thu nhập, tình trạng uống rượu của
chồng và những trải nghiệm về bạo lực khi còn nhỏ của người vợ cũng như
người chồng có liên quan đến tình trạng bạo lực tinh thần của người phụ nữ

giới tính của thai nhi được đưa ra thì người phụ nữ là người chịu nhiều những
tầng áp lực, họ không thể nói ra. Họ phải cân nhắc để xem có nên sinh đứa bé
hay không, họ chịu áp lực từ phia người chồng, từ gia đình nhà chồng, và phải
đưa ra những quyết định thực sự khó khăn.
1.5. Hậu quả của bạo lực tinh thần đối với ngƣời phụ nữ mang thai
1.5.1. Hậu quả về mặt sức khỏe
Bạo lực đối với phụ nữ hầu hết đều dẫn đến những hậu quả về mặt sức
khỏe nói chung [17]. Bạo lực đối với phụ nữ có thể gây nên các vấn đề về trầm


19

cảm, đặc biệt bạo lực trên phụ nữ có thai có thể dẫn đến việc sinh non hay sinh
con nhẹ cân.[2]. Hơn thế nữa, những phụ nữ bị bạo lực còn bị những thương
tích, đau đớn suốt đời, bị ép sử dụng những chất gây nghiện, hay tự tử [4].
1.5.2. Hậu quả về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản
Phụ nữ, những người sống với bạn tình vũ phu, thường rất khó khăn
trong việc đòi hỏi quyển của họ và bảo vệ họ không có thai ngoài ý muốn, bị
nhiễm HIV và STD. Bạo lực có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe tình dục và
sức khỏe sinh sản: rối loạn phụ khoa, vô sinh, bệnh viêm xương chậu, rối loạn
tình dục, STD, HIV/AIDS, nạo hút thai không an toàn, có thai ngoài ý muốn và
tử vong mẹ. Bạo lực trong quá trình mang thai thường dẫn đến sảy thai, chăm
sóc thai muộn, trẻ chết ngay khi sinh, đau dẻ sớm và đẻ non, động thai, và tỷ lệ
sinh thấp [4]
1.5.3. Hậu quả đối với sức khỏe tinh thần
Bạo lực giới nói chung, BLGĐ nói riêng có thể gây ra các stress sau
sang chấn, lo hãi, bất an. Sau những lần bị bạo lực, người phụ nữ thường trải
qua quãng thời gian khó khăn để cân bằng cuộc sống. Tình trạng đó có thể tự
khỏi, nhưng trong một số trường hợp, các triệu chứng có thể nặng lên, kéo dài,
gây hủy hoại cả cuộc đời và phát triển thành bệnh thực sự như: trầm cảm,

1.5.6. Giảm tuổi thọ
Ngân hàng Thế giới (1993) ước tính các trường hợp cưỡng hiếp và
BLGĐ làm giảm 5% tuổi thọ của phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại các nước
đang phát triển. Ví dụ, tại Trung Quốc, nơi tỷ lệ tử vong ở mẹ và các bệnh do
đói nghèo đã được kiểm soát tương đối, số năm sống bị mất do cưỡng hiếp và



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status