Thực trạng chấn thương do bạo lực ở lứa tuổi vị thành niên và thanh thiếu niên Việt Nam năm 2010 và một số yếu tố liên quan - Pdf 30


i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
VŨ THỊ CẨM THANH

TÊN ĐỀ TÀI

THỰC TRẠNG CHẤN THƢƠNG DO BẠO LỰC
Ở LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN VÀ THANH NIÊN VIỆT NAM NĂM 2010
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.76
HÀ NỘI, 2010
iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CDC : Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ
ĐH : Đại học
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
EAs : Đơn vị mẫu (50 hộ gia đình)
PC 2010 : Điều tra di biến động dân số Việt Nam năm 2010
SAVY 1 : Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần 1
SAVY 2 : Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần 2
TNTT : Tai nạn thương tích
TBXH : Thương binh xã hội
VTN&TN : Vị thành niên và thanh niên
VNIS 2010 : Điều tra Quốc gia về tai nạn thương tích năm 2010
YTCC : Y tế Công Cộng
6. Xử lý và phân tích số liệu: 24
7. Các biến số và chỉ số trong nghiên cứu: 25
8. Khía cạnh đạo đức của nghiên cứu: 26

v
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu. 27
2. Tỷ suất chấn thương do bạo lực trong lứa tuổi VTN&TN 30
3. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, gia đình với chấn thương do bạo lực. 40
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 45
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu. 45
2. Tỷ suất chấn thương do bạo lực trong lứa tuổi VTN&TN 45
3. Mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân, gia đình với chấn thương do bạo lực. 50
4. Vấn đề về cỡ mẫu và phiên giải kết quả 52
5. Hạn chế của nghiên cứu. 53
Chƣơng 5: KẾT LUẬN 55
1. Thực trạng chấn thương do bạo lực ở lứa tuổi VTN&TN Việt Nam 55
2. Mối liên quan giữa một số yếu tố với chấn thương do bạo lực 56
Chƣơng 6: KHUYẾN NGHỊ 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
PHỤ LỤC 63
Phụ lục 1: Giới thiệu nghiên cứu VNIS 2010. 63
Phụ lục 2: Khung lý thuyết của nghiên cứu 65
Phụ lục 3: Các biến trong nghiên cứu 66
Phụ lục 4: Thiết kế và ước lượng mẫu của VNIS 2010. 68
Phụ lục 5: Tóm tắt bộ câu hỏi của VNIS 2010 và câu hỏi của nghiên cứu. 71


Bảng 14: Mối liên quan giữa chấn thương do bạo lực và tình trạng hôn nhân của
ĐTNC 41
Bảng 15: Mô hình hồi quy logistics phân tích mối liên quan của các yếu tố cá nhân
gia đình với chấn thương do bạo lực ở lứa tuổi VTN&TN 42

vii
Bảng 16: Mối liên quan giữa chấn thương do bạo lực và giới trong nhóm 10-17 tuổi
43
Bảng 17: Mối liên quan giữa chấn thương do bạo lực trong nhóm 10-17 tuổi và
nghề nghiệp của cha……………………………………………………………… 43
Bảng 18: Mối liên quan giữa chấn thương do bạo lực trong nhóm 10-17 tuổi và
số nhân khẩu trong gia đình………………………………………………… ……44

ix
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU

Bạo lực ở lứa tuổi VTN&TN đang là vấn đề mà hầu hết các quốc gia trên
toàn thế giới phải đối mặt. Điều đáng lo ngại là trong khi xã hội ngày càng phát
triển tiến bộ, lớp người trẻ tuổi được quan tâm, chăm sóc đầy đủ hơn về vật chất và
tinh thần nhưng bạo lực trong nhóm này lại có xu hướng tăng, kéo theo đó là những
ảnh hưởng cho cá nhân, gia đình, cộng đồng. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu hướng đó, kết quả của một số cuộc điều tra trên toàn quốc cũng như qua các số
liệu thống kê cho thấy bạo lực trong lứa tuổi VTN&TN Việt Nam những năm gần
đây thật sự đáng báo động. Vì vậy để trả lời cho câu hỏi vấn đề bạo lực ở lứa tuổi
VTN&TN như thế nào? các yếu tố liên quan là gì? chúng tôi tiến hành nghiên cứu
về vấn đề chấn thương do bạo lực ở VTN&TN Việt Nam.
Nghiên cứu cắt ngang mô tả này là một đề tài nhánh của điều tra Quốc gia về
tai nạn thương tích năm 2010 (VNIS 2010). Số liệu của nghiên cứu được lấy ra từ
cấu phần điều tra về TNTT không tử vong (bao gồm 50.000 hộ gia đình được chọn
ngẫu nhiên hệ thống). Toàn bộ thông tin về những người trong độ tuổi 10 – 24 tuổi
được rút ra và phân tích. Các sự kiện chấn thương do bạo lực của các đối tượng
VTN&TN trong hộ gia đình, các yếu tố liên quan đến chấn thương do bạo lực ở cấp
độ cá nhân, gia đình, những hậu quả chấn thương do bạo lực được thu thập bằng bộ
câu hỏi tại hộ gia đình. Thời gian tiến hành nghiên cứu từ tháng 10/2010 – 6/2011
tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước.
Kết quả nghiên cứu: tỷ suất chấn thương do bạo lực chung trong nhóm
VTN&TN là 124/100.000. Con số này cao hơn hẳn ở nông thôn so với thành thị, ở


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chấn thương và bạo lực là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng đang có xu
hướng gia tăng trên toàn thế giới với mức độ nhanh chóng, ảnh hưởng đến tất cả các
lứa tuổi, các dân tộc và tình trạng kinh tế xã hội. Theo ước tính mỗi năm có khoảng
5 triệu người tử vong do tất cả các nguyên nhân chấn thương [5]. Tuy nhiên con số
này vẫn có thể còn thấp hơn so với thực tế, đặc biệt là ở những nước có thu nhập
thấp và trung bình nơi các hệ thống giám sát và số liệu còn nhiều hạn chế.
Chấn thương bao gồm hai cấu phần: chủ định và không có chủ định. Chấn
thương không có chủ định thường được hiểu như một “tai nạn”. Trong khi đó, chấn
thương chủ định (chấn thương do bạo lực) là những chấn thương có sự chuẩn bị
trước, hoặc do chính những nạn nhân chủ định gây ra (tự tử hoặc cố gắng tự tử)
hoặc do người khác (đánh nhau, hành hung, hiếp dâm, lạm dụng). Và điều đáng lo
ngại là trong những năm gần đây, mặc dù xã hội ngày càng phát triển, nhưng tình
trạng bạo lực lại trở thành vấn nạn của nhiều quốc gia. Với sự biến động của tình
hình kinh tế, những bất ổn trong đời sống xã hội…đã và đang tác động đến tâm sinh
lý của mọi tầng lớp, đặc biệt đối với nhóm đối tượng nhạy cảm là VTN&TN. Bạo
lực ở nhóm người trẻ tuổi này là vấn đề nổi cộm hiện nay, có thể bắt gặp ở bất kỳ
đâu trên khắp thế giới, báo chí và truyền thông đưa tin hàng ngày về vấn đề xung
đột giữa các băng nhóm, đánh nhau, hành hung trong trường học, trên đường phố,
bạo hành gia đình
Năm 2000, ước tính có khoảng 199.000 vụ giết người trong lứa tuổi
VTN&TN xảy ra trên toàn cầu (tỷ suất 9,2/100.000 dân), nói cách khác, trung bình
có khoảng 565 trẻ VTN&TN chết mỗi ngày do bạo lực giữa các cá nhân [11].
Tại Mỹ bạo lực là nguyên nhân đứng thứ hai trong những nguyên nhân gây
tử vong ở nhóm 10 – 24 tuổi. Trong năm 2007, có 5.764 người trong độ tuổi 10 –
24 bị giết, tương đương với 16 người/ ngày. Thống kê năm 2008, có hơn 650.000
trường hợp được điều trị tại các cơ sở y tế bởi chấn thương do bạo lực trong nhóm
10 – 24 tuổi [10].

3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Mô tả thực trạng chấn thương do bạo lực trong lứa tuổi vị thành niên và thanh
niên Việt Nam năm 2010.
2. Xác định một số yếu tố cá nhân và gia đình liên quan đến chấn thương do bạo lực
trong lứa tuổi vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2010.


Bạo lực được định nghĩa theo rất nhiều cách, nhưng theo định nghĩa của Tổ
chức Y tế Thế giới trong “Báo cáo toàn cầu về bạo lực và sức khỏe” thì bạo lực là:
“Việc cố ý sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc quyền lực đối với bản thân,

5
người khác hoặc một nhóm người, cộng đồng, dẫn đến hậu quả hoặc nguy cơ dẫn
đến chấn thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hoặc gây
ra các tổn hại khác” [11].
Định nghĩa này thừa nhận bề rộng và sự phức tạp liên quan trong việc xác
định một hành vi bạo lực. Và định nghĩa tổng quát này được tiếp tục phân chia
thành ba loại nhỏ theo mối quan hệ giữa thủ phạm và nạn nhân [11].
- Tự gây bạo lực trong đó thủ phạm và nạn nhân là một người và được chia
thành tự lạm dụng và tự tử.
- Bạo lực giữa các cá nhân được chia thành hai nhóm:
Bạo lực gia đình và bạo lực tình dục: Thể loại bạo lực này rất phổ biến giữa
các thành viên trong gia đình và với bạn tình. Thể loại bạo lực này bao gồm các
hình thức như lạm dụng trẻ em, bạo lực tình dục, hành hạ người cao tuổi.
Bạo lực cộng đồng: Bạo lực xảy ra giữa các cá nhân không có mối quan hệ
ruột thịt, họ có thể quen biết nhau hoặc không quen biết nhau trước đây. Thể loại
bạo lực này bao gồm bạo lực ở giới trẻ, các hành động bạo lực ngẫu hứng, hiếp dâm
hoặc quấy rối tình dục bởi người lạ và các hành động bạo lực xảy ra tại các cơ quan
như trường học, công sở, nhà tù.
- Bạo lực tập thể liên quan đến bạo lực có động cơ rõ ràng và có sự cam kết
của các nhóm lớn hoặc một tổ chức và có thể được chia thành bạo lực chính trị,
kinh tế và xã hội.
Định nghĩa trên cũng công nhận rằng tác hại của bạo lực có thể là về thể
chất, tình dục, tâm lý, hoặc liên quan đến sự thiếu thốn, bỏ bê.
1.3. Khái niệm VTN&TN
Theo Tổ chức Y tế thế giới “vị thành niên” được định nghĩa là thời kỳ trong
độ tuổi 10-19, “thanh niên” là nhóm tuổi từ 15-24 và khái niệm “thanh thiếu niên” ở

12 tháng trước thời điểm điều tra [20].
Trong một cuộc khảo sát về an toàn cá nhân được tiến hành tại Australia năm
2005 cho thấy 12% phụ nữ tuổi 18-24 bị tấn công bởi một người đàn ông trong
vòng 12 tháng qua, 3% trong số này bị tấn công bởi một người phụ nữ. Tỷ lệ nam
độ tuổi 18-24 bị tấn công bởi một người cùng giới là 19% cao gấp gần 5 lần so với

7
nam độ tuổi từ 25 trở lên (4%). Có tới 29% nam giới tuổi từ 18-19 tham gia vào bạo
lực, cao hơn hẳn so với tỷ lệ này ở nhóm 20-24 tuổi (15%) [7]. Từ năm 1997 đến
năm 2007, tỷ lệ vị thành niên tại Australia bị buộc tội hành hung tăng 48% [8], một
con số không hề nhỏ.
Tại Liên bang Nga Tội phạm bạo lực đã tăng lên đáng kể tại kể từ cuối năm
1980. Theo báo cáo gần đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Văn phòng khu vực
Châu Âu: Nga có tỷ lệ cao nhất của bạo lực trong giới trẻ ở châu Âu. Mười sáu
trong số 100.000 người tuổi từ 10 đến 29 bị giết hại ở Nga mỗi năm từ 2004 đến
2007, một con số thống kê gây sốc. Albania và Kazakhstan xếp hạng thứ hai và thứ
ba trên danh sách của WHO, với mức tương ứng 11,2 và 10,7 trên 100.000 ca tử
vong ở những người trẻ tuổi. Phần còn lại của 10 quốc gia cao nhất cũng bao gồm
các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ Belarus, Ukraine, Kyrgyzstan, Estonia,
Lithuania và Latvia. Theo khảo sát, các nước an toàn nhất cho thanh niên ở châu Âu
là Đức, Áo, Cộng hòa Séc, mức độ tội phạm ở tuổi vị thành niên và thanh niên ở
Anh và Pháp thấp hơn 34 lần so với Nga [16].
Tại Việt Nam, theo Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên năm
2003 cho thấy, có 8% thanh thiếu niên (trong tổng số 7.584 người) cho biết đã từng
bị người ngoài đánh bị thương, 2,5% số đối tượng được phỏng vấn nói rằng đã từng
tụ tập gây rối [2]. Cũng theo số liệu của cuộc điều tra này lần 2 trên tổng số 10.044
VTN&TN, năm 2008, 7,6% thừa nhận đã từng bị chấn thương do người ngoài đánh,
1,4% thừa nhận đã từng đánh người khác đến mức người đó phải đi điều trị [3].
Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy rằng ở bất kỳ nơi đâu tỷ lệ nữ là nạn
nhân của bạo lực luôn thấp hơn nam. Điều này chứng tỏ rằng nam là nhóm dân số

Trả thù: Bạo lực được sử dụng để trả đũa lại những người đã làm tổn thương
họ hoặc những người mà họ quan tâm.

9
Bạo lực là một hành vi học được: cũng giống như tất cả các hành vi được học
khác, nó có thể thay đổi, mặc dù không phải dễ dàng. Vì không có một nguyên nhân
duy nhất nên cũng không có một giải pháp đơn giản để giải quyết bạo lực. Việc tốt
nhất mà bản thân mỗi người có thể làm là học cách nhận ra những dấu hiệu cảnh
báo bạo lực ở bạn bè, những người xung quanh và chính bản thân mình.
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bạo lực ở thanh thiếu niên, tuy nhiên
sự hiện diện của các yếu tố này không đồng nghĩa với việc thanh thiếu niên đó chắc
chắn sẽ có hành động bạo lực.
3.2. Các yếu tố nguy cơ dẫn tới bạo lực ở lứa tuổi VTN&TN
Hành vi bạo lực ở VTN&TN là kết quả tích lũy của sự tương tác của nhiều
yếu tố - gia đình, cá nhân, cộng đồng và xã hội. Và qua việc tổng kết các nghiên
cứu đã được tiến hành, Tổ chức y tế thế giới đã xây dựng nên mô hình sinh thái, thể
hiện mối liên quan giữa các yếu tố này tác động đến vấn đề bạo lực ở lứa tuổi
VTN&TN [17].
Yếu tố cá nhân
Ở mức độ cá nhân, các yếu tố gây ảnh hưởng tới các hành vi nguy cơ dẫn đến
bạo lực bao gồm: sinh học, tâm lý và hành vi tính cách. Các yếu tố này có thể đã
xuất hiện từ khi còn nhỏ hoặc khi đang dậy thì và mức độ thay đổi phụ thuộc vào
môi trường gia đình, bạn bè và các yếu tố văn hóa và xã hội.
Yếu tố sinh học:
Một nghiên cứu tại Brazil đưa ra giả thuyết rằng cho con bú có thể bảo vệ
chống lại sự phát triển của hành vi bạo lực. Giả thuyết này căn cứ trên cơ chế sinh
học là trong sữa mẹ có sự hiện diện của các chất góp phần phát triển thần kinh, bên
cạnh đó yếu tố hành vi và cảm xúc – sự kết nối tình cảm giữa mẹ và con khi bú - có
thể ức chế sự xuất hiện của hành vi phạm tội sau này [19]. Tuy nhiên, có rất ít
nghiên cứu về vấn đề này do vậy chưa có nhiều bằng chứng thuyết phục.

túy có liên quan với hành vi bạo lực gia tăng ở thanh thiếu niên [27].
Nghiên cứu khác trên 7511 học sinh trong lứa tuổi 15 – 19 tuổi ở Bồ Đào
Nha cũng cho kết quả tương tự: có mối quan hệ chặt chẽ giữa hành vi hút thuốc,

11
uống rượu với bạo lực. Nghiên cứu này cũng cho thấy những đối tượng sử dụng cần
sa thường tham gia vào các hành vi bạo lực nhiều hơn các đối tượng khác [31].
Trí thông minh thấp và kết quả học tập ở trường kém cũng có mối liên quan
với bạo lực ở giới trẻ.
Các mối quan hệ
Các yếu tố nguy cơ về mặt cá nhân được nêu ở trên không bao giờ tồn tại tách
biệt với các yếu tố nguy cơ khác. Các yếu tố liên quan tới mối quan hệ của giới trẻ
như gia đình, bạn bè, bạn đồng lứa cũng đồng thời ảnh hưởng đến các hành vi bạo lực
và hiếu chiến ở chúng. Gia đình luôn có tác động mạnh mẽ nhất trong suốt thời thơ
ấu, trong khi ở tuổi vị thành niên ảnh hưởng của bạn bè và đồng trang lứa lại gia tăng.
Ảnh hưởng của gia đình
Hành vi của cha mẹ và môi trường của gia đình là yếu tố trung tâm của việc
phát triển các hành vi bạo lực ở giới trẻ. Việc giám sát và theo dõi con cái lỏng lẻo
của bố mẹ và việc mắng chửi, đánh đập khi giáo dục con cái sẽ báo hiệu các hành
động bạo lực khi chúng khi trưởng thành [11].
Theo một nghiên cứu của McCord ở Boston, Mỹ trên 250 trẻ đã thấy rằng,
nếu trẻ 10 tuổi thiếu sự giám sát của bố mẹ, bị cha mẹ sử dụng các hình phạt bằng
chửi bới, đánh đập sẽ làm gia tăng nguy cơ bị kết án do tham gia bạo lực cho đến
năm 45 tuổi [11].
Thu nhập gia đình là đặc trưng kinh tế xã hội có mối liên quan chặt chẽ với
bạo lực ở VTN&TN. Những trẻ sinh ra trong các gia đình nghèo có khả năng phạm
tội cao hơn so với những trẻ sống trong gia đình khá giả [22].
Một nghiên cứu ở Arizona cho thấy rằng các bà mẹ có nhiều con ít có khả
năng giám sát con của mình [24]. Bên cạnh đó, gia đình đông con thường là những
gia đình nghèo, sống ở những nơi có mật độ tội phạm cao, do vậy trẻ có thể tiếp xúc

cùng với những học sinh bỏ học thì nguy cơ tham gia vào các hành vi bạo lực ở
thanh thiếu niên tăng lên [26].
Yếu tố cộng đồng
Cộng đồng nơi mà thanh thiếu niên đang sống có ảnh hưởng rất quan trọng
tới gia đình họ cũng như các nhóm bạn đồng đẳng của họ. Nhìn chung các thanh

13
thiếu niên ở các vùng thành thị thường liên quan đến bạo lực nhiều hơn giới trẻ
sống ở vùng nông thôn [11].
Các cộng đồng có nhiều băng nhóm, nghiện ngập cũng có tỷ lệ cao bạo lực ở
giới trẻ. Việc tương tác xã hội trong một cộng đồng cũng đồng thời ảnh hưởng đến
tỷ lệ bạo lực ở giới trẻ: ví dụ các hành động và ăn nói cộc cằn, thô lỗ, thiếu niềm tin
và sự quan tâm giữa các thành viên cộng đồng .
Có một số bằng chứng cho thấy việc tiếp xúc với bạo lực trên truyền hình và
các trò chơi bạo lực liên quan tới sự gia tăng tính hung hãn ở trẻ em, và sự hung
hăng này làm tăng nguy cơ tham gia vào các hành vi bạo lực. Điều tra quốc gia trực
tuyến tại Mỹ với 1.588 thanh niên đã được tiến hành vào năm 2006 cho thấy mặc dù
tiếp xúc với bạo lực trong truyền thông không phải là lý do duy nhất cho bạo lực
thanh thiếu niên nhưng nó cũng góp phần làm tăng nguy cơ [34].
Yếu tố xã hội
Một số yếu tố xã hội có thể dẫn đến tình trạng thanh thiếu niên vi phạm pháp
luật liên quan đến bạo lực như: Thay đổi dân số và xã hội, phân hóa giàu nghèo, cơ
cấu chính trị, ảnh hưởng của văn hóa…
Xã hội bất bình đẳng đóng một vai trò quan trọng trong các căn nguyên của bạo
lực [21] [27]. Tỷ lệ thất nghiệp trong cộng đồng cao, nghèo đói và sự không chắc chắn
về tương lai được cho là có liên quan với việc làm tăng nguy cơ của bạo lực [21].
Trên đây là các yếu tố liên quan đến bạo lực ở VTN&TN đã được nhiều
nghiên cứu chứng minh và đã được WHO thiết kế thành một khung lý thuyết cho
mọi nghiên cứu về bạo lực ở giới trẻ (Phụ lục 2). Nghiên cứu này chỉ phân tích các
yếu tố liên quan ở cấp độ cá nhân và gia đình và một yếu tố xã hội (vùng sinh thái)

chính sách và dịch vụ pháp lý, và các chi phí gián tiếp của thu nhập và năng suất bị
mất, bị mất đầu tư vào con người, vốn, chi phí bảo hiểm cuộc sống và chất lượng
cuộc sống giảm. Ước tính chi phí giữa các nước rất khác nhau do sử dụng các
phương pháp tính toán khác nhau. Bạo lực ước tính chi phí của Mỹ tương đương
gần 3,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Trong năm 2005, 51.173 ca tử vong liên
quan đến bạo lực (giết người, tự sát và các biện pháp can thiệp của pháp luật) dẫn
đến 47 triệu USD trong chi phí tổng cộng [9]. Các chi phí của bạo lực ở Anh và xứ

15
Wales đã được ước tính 40,2 tỷ USD (khoảng 20 tỷ franc) hàng năm. Còn theo báo
cáo của Viện tội phạm Australia, tại nước này: tội phạm chi phí hết khoảng 36 triệu
USD, chi phí của các vụ giết người là 950 nghìn USD mỗi năm. Các số liệu này
bao gồm chi phí y tế, sản lượng bị mất, và chi phí vô hình như đau và đau khổ và sợ
hãi [14].
Ngoài các hậu quả trực tiếp về thể chất là tử vong hoặc thương tích, các hậu
quả gián tiếp cho nền kinh tế do bạo lực gây ra, phải đề cập đến cấu phần quan
trọng là hậu quả về tinh thần, đặc biệt đối với trẻ em, những ảnh hưởng tâm lý có
thể là: trầm cảm, sợ hãi, stress, cảm giác tội lỗi, mặc cảm, trốn tránh cuộc sống, mất
khả năng hội nhập xã hội … Những trẻ em và vị thành niên sống và lớn lên trong
một môi trường có nhiều hành vi bạo lực: lời nói, hành động, bạo lực tinh thần, tình
cảm hay bạo lực thể xác, sẽ làm cho tâm hồn các em bị tổn thương nặng nề, những
tổn thương này dần dần ăn sâu vào tiềm thức. Vì thế các em lớn lên mà không ý
thức được sự tổn thương đã ảnh hưởng đến hành vi và cách ứng xử của bản thân.
Các đối tượng này có khuynh hướng từ chối cho là mình bạo lực, hoặc không muốn
nhớ đến các cảm xúc bị tổn thương trước đây, hoặc sẽ dần dần chai sạn mất cảm
xúc với hành vi bạo lực, do đó các em ứng xử bạo lực vói người khác mà không có
một cảm nhận gì đối với người bị bạo lực, dẫu cho nạn nhận năn nỉ hay khóc lóc,
hoặc dửng dưng khi nhìn một hành vi bạo lực mà không nhận ra đó là hành vi sai trái.
Sự tổn thương của tuổi ấu thơ hoặc vị thành niên do hành vi bạo lực gây ra nếu không
được điều trị, chúng nằm im trong tiềm thức và sẽ tìm nơi để bộc phát.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status