Tiểu luận Phương thức bảo vệ quyền sở hữu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận cách bảo vệ quyền sở hữu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn



MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .4
1. Một số vấn đề lý luận .4
1.1. Kiện đòi lại tài sản (kiện vật quyền) .4
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp .5
1.3. Kiện yêu câud bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền) .6
2. Thực trạng .7
3. Đánh giá việc bảo vệ quyền sở hữu bằng cách dân sự - một số giải pháp .15
3.1. Nhận xét 15
3.2. Giải pháp .17
KẾT LUẬN .20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .21
 
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39379/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

S ghi nhận và phân biệt nhiều cách kiện dân sự khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho ta thấy rằng, sự xâm phạm đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau. Vì vậy vấn đề đặt ra là là phải chọn cách nào cho phù hợp với mức độ và các tình tiết của vụ việc.
. Kiện đòi tài sản (kiện vật quyền).
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình. Quyền đòi lại tài sản được quy định tại Điều 256 BLDS: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…”. Khi xây dựng cơ chế kiện đòi lại tài sản, các nhà làm luật Việt Nam đã rất cân nhắc trong việc làm sao phải bảo đảm sự hài hoà giữa yêu cầu bảo vệ chủ sở hữu với bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình cũng như bảo đảm tính ổn định trong lưu thông dân sự. Vì vậy đối với những tài sản được chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai và đã được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì không áp dụng việc đòi lại tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS hay các trường hợp theo quy định tại Điều 257, 258 thì không đòi lại tài sản). ). Tuy nhiên, điều kiện chung cho cách kiện đòi tài sản được quy định tại Điều 256, 257, 258 khi chủ sở hữu có đủ các yếu tố sau:
- Vật rời khỏi chủ sở hữu hay dời khỏi người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ; hay theo ý chí của họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù như tặng, cho, thừa kế theo di chúc…
- Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm giữ bất hợp pháp.
- Vật hiện đang còn trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
- Vật là bất động sản hay động sản phải đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp khác do pháp luật quy định.
1.2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với viêc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Đây là cách cho phép chủ sở hữu kiện tới toà án khi một người nào đó có hành vi trái pháp luật cản trở việc thực hiện quyền sở hữu hay quyền chiếm hữu hợp pháp để quyền yêu cầu người này phải chấm dứt hành vi đó. Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 165, BLDS quy định: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hay làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở pháp luật. Người không phải là chủ sở hữu của tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản nếu như có thỏa thuận với chủ sở hữu hay theo quy định của pháp luật (Điều 194 BLDS).
Để thực hiện các quyền năng hợp pháp này BLDS đã cho phép chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ, yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó. Ngoại ra, Điều 259 BLDS còn quy định:“Quyền yêu cầu ngăn chặn hay chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp.
Khi thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó phải chấm dứt hành vi”.
Mục đích chính của cách này là nhằm bảo đảm để chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản một cách bình thường.
1.3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền).
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản của có quyền kiện tới toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều 260 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Đây được gọi là cách kiện trái quyền bởi vì nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi người chiếm hữu hợp pháp hay bất hợp pháp đã bán tài sản cho người khác mà không tìm thấy người mua nữa hay tài sản bị tiêu huỷ… Lúc này chủ sở hữu không lấy lại được tài sản của mình và luật cho phép chủ sở hữu lựa chọn cách kiện đòi bồi thường thiệt hại. hay người chiếm hữu hợp pháp bán tài sản cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp phải bồi thường giá trị của tài sản, ví dụ như: T mượn xe đạp của H rồi mang đi bán cho một người thứ ba ngay tình, H có quyền kiện T để đòi bồi thường thiệt hại…
“Nếu hành vi gây thiệt hại cho tài sản nằm trong khuôn khổ việc không thực hiện hay thực hiện không đúng một nghĩa vụ trong hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện vi phạm hợp đồng. Nếu hành vi gây thiệt hại không phải là hành vi vi phạm hợp đồng, chủ sở hữu có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại cho tài sản người khác cấu thành tội phạm hình sự, chủ sở hữu cũng có thể yêu cầu giải quyết vấn đề dân sự (bồi thường thiệt hại) trong phiên toà hình sự hay tách ra thành vụ kiện dân sự để giải quyết trong phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng” ( Bảo vệ quyền sở hữu thông qua cách kiện dân sự những ưu điểm và hạn chế so với các cách khác – Th.s NGUYỄN THỊ TUYẾT – Khoa Luật dân sự – Trường Đại học Luật Hà Nội).
Thực trạng.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ đi vào xem xét một số vụ án trong thực tiễn, cách giải quyết của tòa án, cũng như những nhận xét của các nhà làm luật.
2.1. Vụ án “Đòi nhà đất” tại Tòa án thành phố H.
Nội dung:
Năm 1944, cụ Vũ Tá M và cụ Hoàng Thị N mua của ông Ngô Ngọc Khánh một thửa đất diện tích 90m2 tại số 135 phố TS (số cũ 175 làng An Hạ). Đất được cấp bằng khoán điền thổ mang tên hai cụ, số thửa 42 (Trong giấy tờ mua bán năm 1929 giữa ông Khánh với chủ cũ thì trên đất có một nhà cấp 4). Năm 1946, toàn quốc kháng chiến gia đình hai cụ tản cư về quê. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc L (con trai của hai cụ) thì nhà đất khóa cửa để lại, không gửi ai; vào các 1971, 1990, 2002 ông L có quay...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status